«Nhân» và «duyên» của sự sống đời đời

«Nhân» và «duyên»
của sự sống đời đời

 bbb

 

1. Lý thuyết «nhân» và «duyên»

Muốn có được cây lúa, điều tối quan trọng là phải có hạt giống lúa, đó chính là «nhân» để có «quả» là cây lúa. Nhưng hạt lúa không thể nảy mầm và phát triển nếu không có những điều kiện thuận lợi như: đất tốt, nước, nhiệt độ, ánh sáng, hoặc phân bón, thuốc trừ sâu, diệt cỏ, v.v… Những điều kiện ấy, triết lý Á Đông gọi là «duyên» (Triết Tây gọi «duyên» là «secondary causes», còn «nhân» là «primery cause»). Nếu những điều kiện để phát triển ấy cho dù hết sức thuận lợi mà không có hạt giống lúa thì cũng không bao giờ có được cây lúa. Như vậy, phải hội đủ cả «nhân» và «duyên» thì mới có thể sinh ra «quả» mong muốn.
Sự thánh thiện hay sự sống đời đời cũng phải hội đủ hai yếu tố «nhân» và «duyên» mới thành tựu được. Cả hai yếu tố đều quan trọng không thể thiếu. Nhưng giữa hai yếu tố ấy, thì «nhân» quan trọng hơn «duyên» rất nhiều. Thiếu «duyên» thì «nhân» khó phát triển, có tồn tại thì cũng èo ọt. Nhưng thiếu «nhân» thì «duyên» có đầy đủ đến đâu, cũng hoàn toàn vô ích.
Muốn trồng lúa mà không lo «nhân» là mua và gieo hạt giống, mà cứ lo «duyên» là chuyện cày bừa, dẫn nước, bón phân, làm cỏ… rồi mong lúa mọc lên, thì sẽ thất vọng. Vì thế, trong việc nên thánh, hay tìm sự sống đời đời, tại phải biết đâu là «nhân», đâu là «duyên», để có đủ cả hai. Nhưng việc ưu tiên phải lo cho được là cái cốt yếu là «nhân», sau đó mới lo đến cái «duyên», là những điều kiện giúp cho «nhân» phát triển.

aaa
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu có nói đến trường hợp vào ngày phán xét, có những người nói với Ngài: «Nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?» Họ tưởng làm được những việc ấy thì đã là thánh thiện lắm rồi, và chắc chắn sẽ được Chúa thưởng bội hậu. Nhưng không ngờ Ngài lại nói điều làm cho họ bật ngửa: «Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!» (x. Mt 7:21-23). Đọc đoạn Tin Mừng này, chúng ta phải tự hỏi tại sao lại như vậy? Liệu chính chúng ta có đang làm những điều tương tự như thế không?
Tại sao lại như vậy? − Vì cái cốt yếu nhất là cái «nhân» của sự thánh thiện thì họ lại không có vì không quan tâm thực hiện, mà chỉ quan tâm thực hiện đến cái «duyên», là những gì giúp cho cái cốt yếu là cái «nhân» kia lớn mạnh. Nếu chính cái «nhân» không có, mà lại cứ làm những điều để cái «nhân» phát triển, thì chẳng phải là… làm chuyện vô ích sao?
Vậy «nhân» và «duyên» của sự thánh thiện hay sự sống đời đời là gì?
 
2. «Nhân» và «duyên» của sự thánh thiện hay sự sống đời đời
«Thiên Chúa là tình yêu» (1Ga 4:8.16). Bản chất của Ngài là tình yêu. Mà điều chính yếu của sự thánh thiện chính là trở nên giống Thiên Chúa. Mà giống Thiên Chúa là giống ở chỗ nào? − Thưa, phải giống ở chính bản chất của Ngài là tình yêu, chứ không phải ở những điều phụ thuộc khác. Chính vì thế, chỉ những ai có tình yêu đích thực, mới là người thánh thiện, mới có được sự sống đời đời. Việc giữ đạo hay sống đạo của chúng ta, phải nắm cho được, và phải thực hiện cho bằng được điều cốt yếu này. Nếu chúng ta cứ nỗ lực làm đủ mọi thứ mà chúng ta tự cho là tốt, hay người ta bảo là tốt, còn điều cốt yếu nhất thì chúng ta lại không biết đến, hay không thèm thực hiện, thì việc giữ đạo hay sống đạo của chúng ta sẽ trở nên «xôi hỏng, bỏng không», hay là «công dã tràng» như Chúa đã cảnh báo trong đoạn Tin Mừng trên (x. Mt 7:21-23). Thánh Phaolô từng xác định như đinh đóng cột rằng: nếu ta không có tâm yêu thương đối với tha nhân, thì dù ta làm điều gì tốt tới đâu, hay có đức tin, quyền phép hay tài năng tới đâu, thì giá trị của ta trước mặt Thiên Chúa chẳng là gì cả (x. 1Cr 13:1-3)[*]. Chính vì thế, Ngài xác định: «Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến» (1Cr 13:13). Tất cả mọi nhân đức khác đều không tồn tại, chỉ có đức mến là tồn tại mãi: «Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn» (1Cr 13:8).
[*] 1Cr 13:1-3 => 1 Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. 2 Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì3 Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi

3. Tình yêu là cốt yếu, nhưng phải yêu ai?
a) Theo Cựu Ước:
Kinh Thánh Tân Ước cho thấy Đức Giêsu xác định 2 điều luật quan trọng nhất trong Cựu Ước là «phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực» (Mc 12:30; x. Đnl 6:4-5), và «yêu người thân cận như chính mình» (Mc 12:31; x. Lv 19:8). Thiên Chúa và tha nhân chính là hai đối tượng của tình yêu, mà Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta.
Ngài yêu Thiên Chúa đến nỗi sẵn sàng vâng theo ý Chúa Cha trong mọi sự, thậm chí sẵn sàng chấp nhận cái chết thảm thương trên thập giá, mặc dù Ngài rất sợ đến nỗi «mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất» (Lc 22:44), và Ngài đã phải xin Chúa Cha: «Cha ơi, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này», dẫu sợ kinh khủng, nhưng Ngài vẫn nói: «Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha» (Lc 22:42).
Và Ngài yêu con người đến nỗi đã chấp nhận bị các lãnh đạo của chính tôn giáo mà Cha mình thành lập kết án chết, bị đánh đập tàn bạo, và bị chết trần truồng trên thập giá như một tên tử tội. Phải nói Ngài đã yêu Thiên Chúa và yêu con người «hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực».
Điều đáng cho ta suy nghĩ, đó là tất cả những gì Ngài làm vì yêu thương con người, thì cũng là những hành vi yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa. Việc Ngài xuống thế làm người, sống cuộc đời trần thế với bao khổ đau, chịu khổ hình và chết nhục nhã trên thập giá, và trước khi chết đã lập phép Thánh Thể để ở lại với con người cho đến tận thế, tất cả đều vì yêu thương nhân loại. Và những hành vi yêu thương nhân loại ấy đều được Giáo Hội nhìn nhận là những hành vi thờ phượng Thiên Chúa chính danh nhất, cao cả nhất, và đúng nghĩa nhất.
 
b) Theo Tân Ước
Đức Giêsu tóm gọn hay hiệp nhất hai điều răn có vẻ như tách biệt nhau trong Cựu Ước thành một điều răn duy nhất, và đó chính là sự mới mẻ và tiến bộ của Tân Ước. Điều răn duy nhất ấy là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau» (Ga 13:34-35).
Thánh Phaolô xác định sự hiệp nhất và duy nhất ấy trong câu: «Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gl 5:14) và nhiều câu khác tương tự (x. Rm 13:8.10; Gl 5:14; 2Cr 2:8; Gc 2:8)[*].
[*] Rm 13:8.10 => Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề LuậtĐã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.
● Gl 5:14 => Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
● 2Cr 2:8 => Cho nên, đối với người đó, tôi khuyên anh em hãy đặt tình bác ái lên trên hết.
● Gc 2:8 => Đã hẳn, anh em làm điều tốt, nếu anh em chu toàn luật Kinh Thánh đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
Đức Giêsu là một gương mẫu trong việc thực hiện điều răn mới, là điều răn hiệp nhất hai điều răn của Cựu Ước, qua những hành vi yêu thương con người đến tận cùng như từ bỏ Trời để xuống trần gian cứu độ con người, lập bí tích Thánh Thể, chết trên thập giá, v.v… Tất cả những hành vi yêu thương con người ấy đều là hành vi yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức như đã nói trên. Qua sự việc này, ta thấy yêu mến Thiên Chúa hay yêu thương tha nhân, chỉ là một tình yêu duy nhất, chứ không phải là hai thứ tình yêu khác nhau.
 
c) Tại sao Đức Giêsu lại hiệp nhất hai giới răn của Cựu Ước thành một giới răn duy nhất?
Khi quan niệm hai giới răn tách biệt nhau, người ta có khuynh hướng coi việc yêu mến Thiên Chúa quan trọng hơn rất nhiều so với yêu thương tha nhân. Nhiều người chỉ quan tâm tới việc yêu mến Thiên Chúa qua những nghi thức tôn giáo, đến nỗi họ thường xuyên dâng những của lễ toàn thiêu, nhưng lại đối xử với tha nhân không ra gì. Ngôn sứ Isaia đã phải cảnh báo hạng người này, nhất là những người lãnh đạo họ, như sau:
«Hỡi những kẻ làm đầu Xơ-đôm, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA phán. Hỡi dân Gô-mô-ra, hãy lắng tai nghe Thiên Chúa chúng ta dạy bảo. Đức Chúa phán: “Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta, nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm! Khi các ngươi đến trình diện Ta, ai khiến các ngươi phải giẫm lên khuôn viên của Ta? Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu. Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ» (Is 1:10-17).
Rất nhiều người tưởng rằng mình đã yêu mến Thiên Chúa, giữ trọn điều răn thứ nhất, khi trung thành với những nghi thức tôn giáo, và cho đó là đủ, là giữ trọn lề luật, là sống đạo tốt đẹp. Nhất là khi họ được nhiều người khen họ là thánh thiện, đạo đức chỉ vì thấy họ làm tốt những điều ấy. Nhưng họ đã đi sai đường vì họ không đọc Kinh Thánh, nhất là đọc những lời Đức Giêsu dạy bảo, mà chỉ nghe người khác nói hay dạy bảo cách sai lầm. Chính Đức Giêsu đã cảnh báo các kinh sư và những người Pharisêu xưa là «những kẻ dẫn đường mù quáng» khi họ coi những điều phụ thuộc là quan trọng, còn điều chính yếu nhất thì lại coi thường (x. Mt 23:16-22). Ngài nói thẳng với họ: «Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công bình, lòng nhân và sự thành thật. Phải làm các điều này mà không được bỏ các điều kia. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà» (Mt 23:23-24).
Thánh Gioan, môn đệ yêu quý nhất của Đức Giêsu, đã nắm được ý của Thầy mình khi viết: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4:20).
Thật vậy, Thiên Chúa thì vô hình vô tướng, người ta không thể yêu Thiên Chúa vô hình như yêu thương một con người hữu hình được. Người ta chỉ có thể biểu lộ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa bằng cách yêu mến hình ảnh của Ngài là những người hữu hình đang sống chung quanh mình mà thôi. Khi người ta yêu nhau nhưng phải xa nhau lâu, thì người ta thường thể hiện tình yêu của họ vào những bức ảnh của nhau. Nhiều người đã hôn những bức ảnh của người mình yêu thương khi không có người mình yêu thương ở bên cạnh. Do đó, thánh Gioan rất có lý khi cho rằng người ta nói dối khi nói rằng mình rất yêu anh A hay chị B, nhưng lại rất lãnh đạm hay không hề quý trọng hình ảnh của anh A hay chị B. Cũng vậy, người nói mình yêu Thiên Chúa nhưng lại lãnh đạm hay không yêu thương hình ảnh của Thiên Chúa bên cạnh mình, thì đó là kẻ nói dối, hay kẻ tự lường gạt mình. Mà hình ảnh của Thiên Chúa chính là tha nhân rất hữu hình và cụ thể mà mình gặp hằng ngày. Kinh Thánh đã xác định rất rõ ràng con người là hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1:26-27)[*]. Do đó, con người chỉ có thể biểu lộ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa bằng cách yêu thương tha nhân mà thôi.
[*] St 1:26-27 => Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng tagiống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.”  Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
Chính vì thế, để tránh tình trạng ngộ nhận tai hại mà Ngôn sứ Isaia mô tả ở trên (x. Is 1:10-17), Đức Giêsu mới hiệp nhất hai giới răn của Cựu Ước thành một giới răn duy nhất, là «yêu thương nhau». Và khi được hỏi «Nhưng ai là người thân cận của tôi?» (Lc 10:29) thì Ngài giải thích hay cụ thể hóa «người lân cận» trong giới răn quan trọng thứ hai của Cựu Ước (x. Mc 12:31; Lv 19:18)[*] là người trước mắt đang cần sự giúp đỡ của chúng ta qua dụ ngôn người Samari nhân hậu (x. Lc 10:29-37)[**].
[*] Mc 12:31 => Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.”
● Lv 19:18 => Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là ĐỨC CHÚA.
[**]
 Lc 10:29-37 => 29 Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?”30 Đức Giê-su đáp: “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết.31 Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi.32 Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi.33 Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương.34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc.35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.”36 Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”37 Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”
Rất nhiều đoạn trong Tân Ước nói lên sự hiệp nhất hai điều răn quan trọng của Cựu Ước thành một giới răn duy nhất (x. Ga 13:34-35; 15:12; Rm 13:8; 13:10; 2Cr 2:8; 1Cr 13:1-3; Gc 2:8; Gl 5:14; Mc 10:17-21; 1Ga 4:16; 1Ga 4:8; Mt 12:7; Mt 5:23-24)[*]. Giới răn duy nhất này bao hàm hai giới răn của Cựu Ước là «yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết...» và «yêu người lân cận như chính mình», và cách Chúa muốn ta biểu hiện tình yêu đối với Thiên Chúa bằng cách yêu thương tha nhân. Yêu thương tha nhân mới chính là cách biểu hiện tình yêu của ta đối với Thiên Chúa cách đúng nhất, và đó mới chính là cách mà Thiên Chúa muốn chúng ta biểu hiện tình yêu của ta đối với Ngài. Đức Giêsu đã nói rất rõ như thế trong dụ ngôn nói về ngày phán xét cuối cùng (x. Mt 25:31-46)[**]
[*] Ga 13:34-35 => Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.35 Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.”
● Ga 15:12 => Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
● Rm 13:8 => Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật.
● Rm 13:10 => Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.
● 2Cr 2:8 => Cho nên, đối với người đó, tôi khuyên anh em hãy đặt tình bác ái lên trên hết.
● 1Cr 13:1-3 => 1 Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng.2 Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.3 Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.
● Gc 2:8 => Đã hẳn, anh em làm điều tốt, nếu anh em chu toàn luật Kinh Thánh đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
● Gl 5:14 => Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
● Mc 10:17-21 => 17 Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”18 Đức Giê-su đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa.19 Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.”20 Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.”21 Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Suy niệm: Để được sự sống đời đời, Đức Giêsu không hề nói gì đến việc phải thờ phượng Thiên Chúa, mà chỉ nói đến những việc phải làm cho tha nhân. Để theo Đức Giêsu, Ngài không bảo bán gia tài để cung hiến vào đền thờ, mà bảo đem phân phát cho người nghèo).
● 1Ga 4:16 => Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.
● 1Ga 4:8 => Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.
● Mt 12:7 => Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội.
● Mt 5:23-24 => Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy trước đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.
[*] Mt 25:31-46 => 31 “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. 32 Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. 33 Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. 34 Bấy giờ, Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. 35 Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; 36 Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” 37 Bấy giờ, những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; 38 có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? 39 Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?” 40 Đức Vua sẽ đáp lại rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” 41 Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. 42 Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; 43 Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” 44 Bấy giờ, những người ấy cũng sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” 45 Bấy giờ, Người sẽ đáp lại họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.” 46 Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời.”
***
Tóm lại, việc quan trọng nhất và chính yếu nhất trong đời sống tâm linh hay việc sống đạo của chúng ta, những kẻ tin vào Đức Giêsu, là thực hiện giới răn yêu thương của Ngài. Hãy hiểu thật đúng giới răn mới của Ngài và thực hiện. Hãy ưu tiên thực hiện cái nhân, tức điều cốt yếu nhất, cần thiết nhất, và sau đó mới thực hiện cái duyên, tức những điều cần thiết khác. Những điều cần thiết khác này giúp chúng ta có sức mạnh để thực hiện điều cốt yếu và cần thiết nhất kia, chứ hoàn toàn không thể thay thế điều cốt yếu ấy được. Đừng để ngày phán xét cuối cùng, chúng ta cứ tưởng mình được Chúa cho là công chính chỉ vì đã suốt đời làm những việc cần thiết nhưng phụ thuộc, lại bị Chúa kết án vì điều cốt yếu nhất Ngài muốn ta làm thì ta lại không làm.

Nguyễn Chính Kết

Comments

Popular posts from this blog

Thánh Kinh Công giáo

Thánh Kinh Công giáo

Kinh thánh TL (bản dịch mới)