Phúc Âm Tôma

  

Phúc Âm Tôma hay Sự Sống Thật

https://groups.google.com/g/dienbaoanhduong/c/jjuk-gScGjE?pli=1

Phan Văn Hưng


"Thánh Tôma" tranh vẽ của Johann Friedrich Glocker (1754)

Có một câu hỏi mà tôi sợ người ta hỏi tôi nhất: anh đạo gì? Không phải vì tôi có điều gì để giấu giếm, xấu hổ. Cũng không phải vì tôi không có câu trả lời. Ðúng hơn, tôi biết rằng sau khi trả lời, tôi sẽ phải đứng đó giải thích thêm dông dài mà chưa chắc người kia sẽ hiểu tôi.

Vâng, tôi đạo gì? Nếu đạo có nghĩa là tôn giáo thì không, tôi không là tín đồ của một tôn giáo nào cả. Nhưng trong thâm tâm tôi biết rằng trả lời như vậy không ổn chút nào: tôi là người có đạo chứ. Chẳng hạn, tôi cố gắng sống như người đạo Phật, nhưng tôi lại tin vào Ðức Chúa Trời. Tôi mê cái Vô của Lão Tử, nhưng lại cảm rõ cái hữu của Ðấng là Nguồn, là Ðích của tất cả. Tôi yêu cái tự nhiên gần gũi của Thiền, nhưng cái hùng vĩ của đạo Ấn làm cho tôi phấn chấn đến nổi da gà. Tôi không bao giờ đi lễ chùa nhưng có những thời tôi đã sống như người xuất gia. Tôi cũng chưa từng dự lễ Chúa, nhưng mỗi lần đi ngang qua một nhà thờ vào giờ vắng vẻ, tôi sẽ ghé vào ngồi đó tịnh tâm một mình. Ðạo của tôi không có tên, không có luật, không có giáo lý. Kinh của tôi là sách đạo, sách ngoại đạo lẫn sách ngoài đời, là cuộc sống quanh tôi và ở trong tôi.

Bạn thấy chưa, bạn cần tôi giải thích thêm phải không? Vì nhất định bạn đâu thể thoả mãn với câu trả lời bâng quơ như thế. Nhưng dù tôi có giải thích trên nhiều trang giấy, sự việc sẽ vẫn tiếp tục bâng quơ như thế mà thôi.

May mắn cho tôi do một sự tình cờ, tôi được đọc quyển Phúc-âm của Tôma (Gospel of Thomas) bằng tiếng Anh trên mạng. Tuy không phải là người đạo Kitô, tôi đã nhiều lần đọc và suy ngẫm Kinh Thánh. Không những Kinh Thánh, mà bất cứ một quyển sách nào của bất cứ một tôn giáo nào rơi vào tay tôi là tôi đọc ngấu đọc nghiến. Ðây là một khuynh hướng từ hồi trẻ mà tôi không có cách giải thích, vì tuy bố mẹ tôi là người đạo đức, anh em chúng tôi không bao giờ được giáo dục về đời sống tâm linh.

Tôi đã đọc kinh và đã rung động. Bảo rằng tôi hiểu và thuộc kinh thì không đúng, nhưng chắc chắn tôi đã rung động. Ðọc vào Phúc-âm Tôma, tôi lại càng rung động hơn nữa. Mới đọc thoáng qua một hai câu, tôi biết ngay đây là những lời mà tôi sẽ trân quý, sẽ ôm ấp. Ði tìm bản dịch tiếng Việt, tôi không tìm thấy. Ðiều này cũng dễ hiểu, vì quyển này không nằm trong Kinh Thánh, không được Giáo-hội Công-giáo công nhận và chắc chắn cũng không được lưu truyền rộng rãi trong giới người Việt đạo Kitô. Một số người sẽ gọi quyển này là dị đạo hay ngụy thư.

Tôi không hiểu nhiều về những vấn đề đó, chỉ biết rằng tôi rung động. Một anh bạn Công-giáo của tôi răn đùa: «Coi chừng bị ma quỷ ám đấy!» Tôi nghe theo lời anh, đọc lại mấy lần, nhưng tôi không tìm thấy ma quỷ, chỉ thấy Chân-lý! Vì vậy tôi đã quyết định dịch quyển này sang tiếng Việt, cho tôi dùng đã đành, và cho một vài anh em khác cũng đi tìm như tôi. Lúc đó tôi nghĩ, «chỉ 114 câu, chắc dịch vài ngày là xong». Chín tháng sau, tôi vẫn đang ngồi gõ những dòng chữ này!

Ðiều làm tôi ngạc nhiên thích thú là tính chất đại đồng của những lời này. Dù bạn thuộc truyền thống tôn giáo nào, ngay cả nếu bạn là người vô thần, bạn cũng sẽ cảm nhận được điều này. Man mác trong mỗi câu, bạn sẽ tìm thấy những nét của đạo Phật, đạo Ấn, đạo Lão và nhiều nữa. Tôma có viết ở ngay câu đầu: «Đây là những lời bí truyền của Giêsu». Bí truyền thì không đúng hẳn, vì những lời này rành rành ra đây cho bạn và tôi cùng đọc. Bí truyền là ở cái ý nghĩa sâu kín mà nếu muốn nắm được, người đọc cần tự mình dấn sâu vào chính mình, bỏ lại sau lưng một vài hành trang tư duy của mình, cần quay đầu như Phật nói, và quan trọng nhất, cần thật tâm thực hành. Không thực hành thì những lời này sẽ khép kín hơn cả những câu đố mẹo nhức óc nhất, còn nếu khởi công áp dụng, chúng sẽ lần lượt mở ra, giản dị và cụ thể.

Ðiều đập vào mắt tôi là những lời này mang nhiều hơi hám công án Thiền. Có những câu bí hiểm, có những câu ngộ nghĩnh bất ngờ, và có cả những lúc chúng ta thấy Giêsu không khác gì một Thiền-sư đang đập gậy vào đầu đệ tử để đệ tử ngộ ra đạo! Có những câu khác có thể dễ dàng được thốt ra từ miệng một vị sư Mật-giáo đạo Phật, và điều này cho thấy, ở mức bí truyền hay bí giáo, hình như mọi tôn giáo đều gặp nhau.

Chắc chắn nơi mỗi người đọc sẽ khơi lên những cảm nghĩ khác nhau, những cách diễn giải khác nhau, và càng đọc sẽ càng thấy khơi lên nhiều hơn vô tận. Do đó, khi đưa ra những lời Gợi Ý trong bản dịch này, tôi chỉ có tham vọng dấy lên một vài câu hỏi để chính bạn tự tìm lấy câu trả lời – nếu thật sự có câu trả lời. Ngay cả trong phần Phóng Tác, tôi cũng xin bạn chỉ coi đó là những điểm động não vì điều căn bản trong tiến trình bí truyền là tự mình hiểu lấy. Vì Chân-lý có vô số cách nhận thức, cho nên cái nhìn cá nhân của tôi có thể là một điểm tựa, một thách thức, hay một rào cản đối với bạn.

Người Pháp có câu «traduire, c’est trahir» – đã dịch thì bắt buộc phải sai. Tôi biết điều này lắm. Có mấy câu tôi dịch đi dịch lại tới mấy lần, và mỗi lần như thế ý nghĩa lại bị lật ngược! Có những câu khác càng đào sâu càng thêm bối rối, đến nỗi tôi phải quyết định trở về với linh cảm đầu tiên của mình. Viết quyển sách này đã là một tiến trình học hỏi và tự khám phá tuyệt vời đối với tôi, và như mọi tiến trình học hỏi, nó không bao giờ ngừng. Cho dù quyển này đã đến tay bạn và tưởng như đã viết xong, nhưng tôi vẫn còn đang học sách! Nếu phải viết lại trong mươi năm nữa, chắc chắn quyển sách này sẽ khác lắm.

Dù sao đi nữa, sự nhận biết và áp dụng tối hậu vẫn thuộc về bạn. Chúc bạn những niềm cảm hứng sâu xa. Mong rằng khi bạn đọc những lời này, dù bạn có hay không có đức tin, dù bạn đạo Phật, đạo Chúa hay bất cứ đạo nào, bạn cũng sẽ cảm thấy mình là người có... Ðạo.

Phan Văn Hưng
Mùa thu Nam Bán Cầu 2007 

Tưởng đã mất vĩnh viễn

Tông đồ Tôma chỉ được nhắc đến rất ngắn ngủi trong bốn quyển Phúc-âm của Tân-ước (Matthêu, Macơ, Luca và Gioan) và trong suốt gần hai mươi thế kỷ, tuyệt đại đa số quần chúng đạo Kitô có lẽ không hề hay biết về

Các tông đồ hỏi Ngài: «Bao giờ ngày an nghỉ của những người đã chết sẽ tới? Và bao giờ thế giới mới sẽ tới?» Ngài trả lời: «Ðiều mà các con chờ đợi đã tới rồi, nhưng các con không biết đó thôi.»

(52) Các tông đồ nói với Ngài: «Hai mươi bốn nhà tiên tri đã thuyết pháp tại Do-thái đều đã báo trước về Thầy.» Ngài bảo họ: «Các con quên mất người sống đang đứng trước mặt con mà chỉ nói về những người đã chết.»

(53) Các tông đồ hỏi Ngài: «Việc cắt bì có ích lợi gì hay không?» Ngài bảo họ: «Nếu việc đó hữu ích thì trẻ con đã được cắt bì sẵn khi lọt lòng mẹ rồi. Nhưng sự cắt đứt thật sự nơi linh hồn mới là điều đã tỏ ra hoàn toàn hữu ích.»

(54) Giêsu nói: «Phúc thay cho những người nghèo, vì Nước Trời thuộc về các con.»

(55) Giêsu nói: «Người nào không dứt bỏ cha mẹ mình sẽ không thể trở thành môn đệ của ta. Người nào không dứt bỏ anh chị em mình và không gánh thập tự giá như ta đang gánh, người đó không xứng đáng với ta.»

(56) Giêsu nói: «Người nào hiểu biết thế gian, chỉ tìm thấy một xác chết. Và người tìm thấy xác chết sẽ đứng trên thế gian.»

(57) Giêsu nói: «Nước Cha tựa như một người có hạt giống tốt. Ban đêm, kẻ thù của ông tới gieo cỏ dại trong số hạt tốt đó. Ông ta không để cho ai nhổ ngay cỏ dại đi. Ông nói: ‘Nhổ cỏ sợ sẽ nhổ luôn lúa tốt đó. Khi ngày gặt đến, cỏ dại sẽ mọc lên dễ thấy. Lúc đó cỏ sẽ bị nhổ lên và thiêu hủy.»

(58) Giêsu nói: «Phúc thay cho người nào đã khổ đau và tìm thấy Sự Sống.»

(59) Giêsu nói: «Các con hãy hướng về Ðấng Hằng Sống chừng nào mà con còn sống, vì khi chết rồi, con sẽ không thể tìm thấy dù con có muốn tìm.»

(60) Họ nhìn thấy một người Xamaria bồng một con cừu non đi vào nước Giuđa. Ngài hỏi các tông đồ: «Người đó muốn làm gì với con cừu non vậy?» Họ trả lời: «Người đó muốn giết cừu rồi ăn thịt». Ngài bảo họ: «Ông ta không thể ăn thịt nó khi nó còn sống, chỉ khi nào giết nó đi và nó là một cái xác mà thôi». Họ nói: «Không làm thế thì làm sao ăn thịt được?» Ngài bảo họ: «Các con cũng vậy, hãy tìm cho mình một nơi ngơi nghỉ, vì nếu không, các con sẽ trở thành những cái xác và sẽ bị ăn tươi.»

Bản chính

(114) Simôn Phêrô nói với họ: «Mari phải rời chỗ chúng ta, vì phái nữ không xứng đáng với sự sống». Giêsu nói: «Ta sẽ đích thân hướng dẫn nàng để biến nàng thành nam, để nàng cũng trở thành một linh hồn sống như các con đây là phái nam. Vì người đàn bà nào biến mình thành nam sẽ được vào Nước Trời.»

Dịch giả phóng tác

(114) Tông đồ Simôn Phêrô phản đối sự có mặt của Mari, viện lẽ: «Phái nữ không đủ căn cơ để chứng đạo.» Nhưng Giêsu gạt ngang: «Tại sao không? Ðể ta hướng dẫn cho nàng. Các con là những linh hồn thấm nhuần Sự Sống, thì Mari cũng thấm nhuần Sự Sống đó. Dù là nam hay nữ cũng đều có thể vào được Nước Trời miễn là tâm thức đã kết hợp với tâm thức của Cha.»

Ghi chú

Mari ở đây gần như chắc chắn là Mari Magđơlen. Theo Tân-ước, Mari có mặt trên đồi Thánh khi Giêsu lên thập tự giá và cũng là người đầu tiên được thấy Giêsu phục sinh nơi mộ Chúa. Nhiều học giả cho rằng Mari là một trong những tông đồ được Giêsu quý trọng nhất. Theo Phúc-âm của Philíp, Mari là tông đồ «yêu quý» của Giêsu. Hippolytus và các tín đồ Thiên-chúa tiền-La-mã gọi Mari là «vị tông đồ giữa các tông đồ».

Theo cuốn Phúc-âm của Mari Magđơlen, một tài liệu cổ bằng tiếng Coptic được khám phá năm 1896 tại Cairo, Ai-cập, Mari chính là người đã trấn an và cổ võ tinh thần cho nhóm tông đồ khi tất cả đều khóc lóc và lo lắng cho tính mạng của mình sau khi Giêsu bị đóng đinh trên cây thập tự. Mari cũng là người được Giêsu truyền dạy một số giáo lý mật truyền mà Ngài không hề dạy cho các tông đồ khác. Khi Mari thuật lại những lời dạy này, một số tông đồ đã không tin và tỏ ý ghen tức, khiến Mari bật khóc.

Câu 114 này đã gây ra nhiều sôi động trong giới bình luận, không những vì thái độ kỳ thị của Simôn Phêrô đối với phái nữ, mà cũng vì Giêsu bảo Mari phải biến thành nam để được vào Nước Trời. Có học giả bảo rằng câu chót này làm hỏng cả quyển Phúc Âm Tôma! Xin trấn an bạn ngay, vì Giêsu không hề bảo Mari phải đổi giống! Nên nhớ cụm từ biến thành nam có một ý nghĩa rõ ràng không liên hệ gì tới giới tính trần tục của hành giả, mà để chỉ lễ kết hợp tâm linh được cử hành trong phòng tân hôn (xem câu 75). Theo Hippolytus, «nhà Ðức Chúa Trời được dành riêng cho những người tâm linh. Khi họ vào, họ phải bỏ lại quần áo của họ và trở thành chú rể, sau khi đã được Linh-hồn Trinh-khiết biến họ thành nam». Tất cả những con người tâm linh đạt đạo, không kể nam hay nữ, đều đi qua phòng tân hôn này. Quần áo của họ bỏ lại chính là phàm ngã, và họ đều là những chú rể (xem câu 104).

Theo hai tác già Funk và Hoover, vào thời đó, yếu tố nam biểu tượng cho con người cao thượng và yếu tố nữ cho con người thấp hèn. Khi dùng cụm từ biến thành nam, Giêsu giản dị muốn nói rằng Mari phải chuyển hóa phàm ngã của mình để thể hiện Chân-ngã. Theo tác giả K.E. Corley, dưới ảnh hưởng của những nhóm khổ hạnh Syria, một số nhà tu hành phái nữ thời đó có thể được mô tả là «giống như phái nam» nhờ trình độ tu cao của họ – một đặc tính được coi là của phái nam.

Nói ngắn gọn, biến thành nam có nghĩa là kết hợp với tâm thức của Kitô trong phòng tân hôn, là sống trong tâm thức của Chân-ngã. Trong tâm thức mới này không còn vấn đề nam hay nữ vì tất cả đã hợp nhất làm Một (xem câu 22).

Gợi ý từ các bản văn khác

Và họ (các tông đồ) buồn rầu. Họ khóc lóc và nói: «Làm sao chúng ta gặp người ngoại đạo và thuyết giảng cho họ về Phúc-âm của Nước Con Người được đây? Nếu họ đã không tha Ngài thì làm sao họ tha được chúng ta đây?» Thế là Mari (Magđơlen) mới đứng dậy, chào hỏi mọi người và nói với đồng đạo của mình: «Hãy đừng khóc, đừng buồn và đừng nhụt chí, vì Ơn Ngài sẽ hoàn toàn ở với các người và sẽ che chở cho các người. Thay vào đó, hãy ca ngợi sự vĩ đại của Ngài, vì Ngài đã chuẩn bị cho chúng ta và biến chúng ta thành người.»

Khi thốt lên những câu đó, Mari đã quay con tim họ về sự tốt lành, và họ lại bàn về những lời dạy của Ðấng Cứu-thế. Phêrô nói với Mari: «Thưa chị, chúng tôi biết rằng Ðấng Cứu-thế yêu chị hơn những người nữ khác. Hãy nói cho chúng tôi nghe những lời dạy của Ðấng Cứu-thế mà chị nhớ và biết, mà chúng tôi thì chưa bao giờ được nghe». Mari trả lời: «Những gì còn được giấu kín khỏi các người, tôi xin tiết lộ». Và Mari bắt đầu nói với họ (...)

Phúc-âm Mari Magđơlen 5:1-8 Ðoạn ghi lại sau khi Giêsu chết trên thập tự giá.

Nói xong, Mari (Magđơlen) im lặng, vì Ðấng Cứu-thế chỉ nói với Mari tới chừng đó. Nhưng Ăngđrê lên tiếng và nói với đồng đạo: «Các ông muốn nói gì thì nói về những lời vừa rồi của Mari. Riêng tôi thì không tin được rằng Ðấng Cứu-thế đã nói điều đó. Vì nhất định những giáo lý đó là những ý tưởng kỳ lạ». Phêrô lên tiếng và nói cùng một ý như thế. Ông hỏi họ về Ðấng Cứu-thế: «Có thật rằng Ngài đã nói chuyện riêng với một người đàn bà mà không nói công khai với chúng ta? Không lẽ tất cả chúng ta lại xoay ngược lại mà nghe nàng hay sao? Ngài có yêu mến nàng hơn chúng ta hay không?»

Mari mới bật khóc và bảo Phêrô: «Anh Phêrô, anh nghĩ gì? Anh có nghĩ rằng tôi đã bịa ra chuyện này trong lòng, rằng tôi đã nói dối về Ðấng Cứu-thế hay sao?» Lêvi lên tiếng và nói với Phêrô: «Này Phêrô, anh vẫn thường hay nóng tính. Hôm nay tôi thấy anh tranh cãi với người đàn bà này như một kẻ địch. Nhưng Ðấng Cứu-thế đã trọng nàng, anh là gì mà lại hất hủi nàng? Chắn chắn Ðấng Cứu-thế biết nàng rất rõ. Ðó là lý do tại sao Ngài yêu nàng hơn chúng ta. Thay vào đó, chúng ta hãy biết xấu hổ, hãy cố gắng là con người vẹn toàn và chia tay để đi thuyết giảng về Phúc-âm như Ngài đã ra lệnh. Chúng ta hãy đừng đặt thêm luật lệ ở ngoài những gì mà Ðấng Cứu-thế đã dạy». Và khi họ nghe những câu này, họ khởi sự đi rao giảng và truyền đạo.

Phúc-âm Mari Magđơlen 9:1-10

(Sau khi Mari đã bình giải về «bí mật của sự ăn năn» và được Giêsu khen ngợi, Phêrô phản đối) «Thưa Chúa, chúng con không thể nào chịu nổi người đàn bà này lên tiếng thay vì chúng con nữa. Nàng đã không để cho bất cứ ai trong chúng con được nói mà nàng lại lên tiếng quá nhiều lần.»

Pistis Sophia 36, một bản văn đạo Kitô nguyên thủy

Mọi người nam hay nữ đều có đủ cả hai năng..


Tôma Tông đồ

https://vi.wikipedia.org/wiki/Tôma_Tông_đồ

Bài viết hoặc đoạn này cần được wiki hóa để đáp ứng tiêu chuẩn quy cách định dạng và văn phong của Wikipedia. Xin hãy giúp sửa bài viết này bằng cách thêm bớt liên kết hoặc cải thiện bố cục và cách trình bày bài.

Thánh Tôma

Thánh Tô-ma Tông đồ (tiếng Anh: Thomas the Apostle, tiếng Do Thái Kinh Thánh: תוּמָא הקדוש‎; tiếng Hy Lạp cổ: Θωμᾶς; tiếng Copt: ; tiếng Syriac cổ điển: ܬܐܘܡܐ ܫܠܝܚܐ Ṯaumā s̲h̲liḥā (Thoma Sheliha)), còn có tên gọi là Giu-đa Tô-ma, Tô-ma Đa nghi hay là Đi-đi-mô, là một trong muời hai Tông đồ của Giê-su.[1*]

[*01] Fr. G. Thalian. “Saint Thomas the Apostle”. The Great Archbishop Mar Augustine Kandathil, D. D.: the Outline of a Vocation. D. C. Kandathil. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2010..

Tên Tô-ma có nguồn gốc từ Tiếng Aramaic ta'am, có nghĩa là cùng cặp hay là sinh đôi.[3*] Đây là lý do tại sao Tô-ma được đề cập đến trong Kinh Thánh như là Didymus (tiếng Latinh) hay là Didymos (tiếng Hy Lạp: didymos, δίδυμος), tiếng Việt thường phiên âm là Đi-đim hay là Đi-đi-mô.[4*] Trong truyền thuyết của Syria, ông xuất hiện như là Giu-đa Tô-ma (Judas Thomas), vì Tô-ma được hiểu chỉ là tên phụ thêm.

[*03] Saint Thomas, Bách khoa Britannica.

[*04] Benedikt XVI.: Folge mir nach! Die Apostel: Ermutigung zur Nachfolge Jesu. St. Benno-Verlag, Leipzig 2007, S. 114 ff..

Giáo hội Công giáo Rôma làm lễ kỷ niệm ông vào ngày 3 tháng 7 hằng năm. Trong lịch Công giáo truyền thống, ngày lễ này diễn ra vào 21 tháng 12 nhưng sau này đã được dời về ngày như hiện tại để thay cho lễ Thánh Peter Canisius, người mất ngày 21 tháng 12.

Trong Kinh Thánh

Tô-ma chỉ xuất hiện trong một vài đoạn Phúc Âm Gioan. Đoạn 11:16, khi Lazarus vừa chết, các môn đệ muốn Giê-su chữa cho Lazarus thì Tô-ma mạnh dạn nói: «Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!»

Ông cũng nói tại Bữa ăn tối cuối cùng: «Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?» (John 14:5). Giê-su đáp: «Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.»

Ông có lẽ được biết đến nhiều với sự kiện được ghi trong Tân Ước là: các tông đồ khác kể lại cho ông là đã nhìn thấy Giê-su hiện ra với họ sau khi chịu chết nhưng ông không tin và đòi được tận mắt nhìn sự việc thì mới tin. Ngày khác, khi Giê-su lại hiện ra với các tông đồ, cũng có mặt Tô-ma, và Giê-su nói: «Hãy đặt ngón tay con vào đây và hãy nhìn kỹ bàn tay ta. Hãy đến đặt bàn tay con vào cạnh sườn ta. Đừng ngờ vực nữa mà hãy tin!» thì ông đã tin và thốt lên câu nói nổi tiếng: «Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!» (Phúc âm John 20:28). Lúc này, Chúa Giê-su nói với ông Tôma: «Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin.»

Di sản

Theo truyền thuyết, ông được cho là đã đi du lịch bên ngoài Đế quốc La Mã để rao giảng Tin Mừng, đi du lịch xa như Iran, Iraq và Ấn Độ.[2*][3*][5*][6*][7*] Theo truyền thuyết, Tôma Tông Đồ đã đến Muziris, Ấn Độ vào năm 52 và đã làm lễ rửa tội cho một số người dân, thành lập những gì ngày nay được biết đến như cộng đồng Kitô hữu Thánh Tôma hoặc còn gọi là Nasranis tại Ấn Độ.

[*02] a b The Encyclopedia of Christianity, Volume 5 by Erwin Fahlbusch. Wm. B. Eerdmans Publishing - 2008. p. 285. ISBN 978-0-8028-2417-2..

[*03] a b c d Saint Thomas, Bách khoa Britannica..

[*05] The Jews of India: A Story of Three Communities by Orpa Slapak. The Israel Museum, Jerusalem. 2003. p. 27. ISBN 965-278-179-7..

[*06] A. E. Medlycott, (1905) "India and the Apostle Thomas"; Gorgias Press LLC; ISBN 1-59333-180-0..

[*07] Thomas Puthiakunnel, (1973) "Jewish colonies of India paved the way for St. Thomas", The Saint Thomas Christian Encyclopedia of India, ed. George Menachery, Vol. II..

Ngoài Vương cung thánh đường Thánh Tôma tại Chennai, còn rất nhiều địa điểm hành hương và đền thờ mang tên ông và có liên quan đến công cuộc truyền giáo của ông. Ông thường được coi là Thánh bảo trợ của Ấn Độ.[8*][9*]

[*08] Patron Saints of Countries.

[*09] A. E. Medlycott, (1905) "India and the Apostle Thomas".

 


Mộ của Thánh Tôma tại Vương cung thánh đường Thánh Tôma,
Chennai, Ấn Độ

Ông được cho là tử đạo tại Mylapore, một quận của Chennai (Madras) vào khoảng năm 72, nơi đây hiện có một vương cung thánh đường mang tên ông. Một số học giả nghiên cứu về thời kỳ giáo phụ tiên khởi cho là Thánh Thomas tử đạo, ở phía đông của Ba Tư (Iran) hoặc ở Bắc Ấn Độ,[10*] bởi những vết thương đâm vào cơ thể của bốn ngọn giáo của những binh sĩ địa phương.[10*]

[*10] Hunter, William Wilson (1886). The Indian empire: its peoples, history, and products. Morrison & Gibb.

Một số học giả hiện đại như Glenn W Most trích dẫn sách của nhóm Ngộ giáo cho biết Thánh Tô-ma đã chết một cái chết tự nhiên ở Edessa (nay là Şanlıurfa, thuộc Thổ Nhĩ Kỳ).[11*]

[*11] a b Most, Glenn Warren (2009). Doubting Thomas. Harvard University Press. ISBN 9780674025615..

Di hài được cho là của Thánh Tôma Tông Đồ đã được cất giữ ở Lưỡng Hà vào thế kỷ thứ 3, và sau đó chuyển đến những nơi khác nhau.[12*]

[*12] Co-Cathedral Basilica of St. Thomas the Apostle – GCatholic.org – Retrieved 2015-01-11.

Năm 1258, di hài đã được đưa đến Abruzzo, Ý, và được cất giữ tại Nhà thờ Thánh Tôma Tông Đồ tại đó. Tuy nhiên, tại Chennai, mộ cũ của ông vẫn được giữ nguyên.

Trong một tác phẩm thế kỷ 16, Jornada, Antonio Gouvea viết về một cây thập tự trang trí công phu được gọi là Thập tự Tôma (Saint Thomas Crosses). Thập tự này cũng được biết đến như là Nasrani Menorah,[13*] hoặc Marthoma Sliba.[14*] Thập tự này có niên đại từ thế kỷ thứ 6 và được tìm thấy trong một số nhà thờ ở Kerala, Mylapore và Goa.

[*13] Paul M. Collins – Christian inculturation in India, pp.119, Ashgate Publishing, Ltd., 2007, ISBN 0-7546-6076-1.

[*14] «NSC NETWORK: Saint Thomas Cross- A Religio Cultural Logo of Saint Thomas Christians». Nasrani.net. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2012..

Trong một số truyền thuyết, mà chủ yếu được bày tỏ và sử dụng trong Ngộ giáo và Mani giáo, Thomas được coi là em trai song sinh của Chúa Giêsu. Có xuất hiện Phúc Âm của Thomas và Hồ sơ Thomas (còn gọi là sách Tông đồ Tôma về công việc truyền giáo của ông tại Syria và Ấn Độ) nhưng được xem là tác phẩm gán ghép và biến chế ngụy tạo.[3*][15*].

[*03] Saint Thomas, Bách khoa Britannica.

[*15] Jan N. Bremmer chủ biên: The apocryphal acts of Thomas. Peeters Publishers, Leuven, 2001 (Studies on early Christian apocrypha, Bd. 6), ISBN 9-042-91070-4, online.


Sách Phúc Âm của Thánh Thomas

https://hoangkim2017.weebly.com/b7841n-coacute-bi7871t-1/october-22nd-2019

Trong bài viết của Bản Tin #81, đề mục “Bạn có biết: Những quyển Kinh Thánh thất lạc”, tác giả James Bean mở đầu bằng lời của Thanh Hải Vô Thượng Sư, nói về Kinh Thánh thời nay không đầy đủ: «Quyển chân Kinh bị khóa lại ở một nơi nào đó và chúng ta không bao giờ được phép xem. Nhưng một số mới được khai quật từ những nơi cổ xưa - một phần của Kinh Thánh đã được phát hiện và một vài đoạn có nói đến luân hồi».

Một trong những phần bị mất tích đã được tìm thấy trong một cái chai bằng đất sét, chứa đầy những kinh điển chép tay mà một người nông dân tìm được tại Nag Hammadi, Ai Cập, vào năm 1946. Những bản viết này dùng chữ Coptic (tiếng phát xuất từ Ai Cập cổ xưa), viết vào thế kỷ thứ tư. Các sử gia tin rằng những người tu hành trong một tu viện gần đó đã chôn tài liệu này trong chai để không bị hủy.

Sau lần phát hiện này, gồm có quyển gọi là Phúc Âm Của Thánh Thoma, thì tin bắt đầu được loan truyền tại Hoa Kỳ nói rằng lời mới của Chúa Giê-su đã tìm ra, và sách này đã được coi là «Phúc Âm Thứ Năm». Mặc dầu sách này chưa bao giờ được cho in vào những bộ Thánh Kinh chính thức, nhưng tầm quan trọng của Phúc Âm của Thánh Thoma không thể nào chối bỏ. Nó bao gồm 114 câu giảng của Chúa Giê-su, quyển này có thể lâu đời tương đương với những quyển phúc âm đã được công nhận, như Phúc Âm của Thánh Mátthêu, thánh Mácco, thánh Luca, và thánh Giôan. Người ta nhận thấy kinh điển này có những đoạn viết bằng tiếng cổ Hy Lạp cũng đã được khám phá trước đó tại Oxyrhynchus ở Ai Cập, vào cuối thập niên 1800, và điều này đã chứng minh thêm về sự xác thực của bộ kinh này.

Phúc Âm Của Thánh Thoma khác với những quyển phúc âm đã được công nhận ở chỗ không nói đến đời sống của Chúa Giê-su mà chỉ trình bày giáo lý của Ngài. Ông Bean tả Phúc Âm Của Thánh Thoma là «một tuyển tập những lời giảng của Chúa Giê-su về sự khai ngộ và khám phá Thiên Quốc». Một số những lời Cam Lồ này giống như những câu trong Kinh Thánh, lấy ví dụ đoạn trích dưới đây.

Chúa Giê-su nói rằng: «Hãy thương bạn mình như thương chính linh hồn mình, bảo vệ họ như bảo vệ chính con ngươi trong mắt mình.» Và Chúa nói: «Ngươi chỉ thấy cái dằm trong mắt bạn của ngươi mà không thấy cái xà trong mắt của chính mình. Khi nào lấy cái xà trong mắt của ngươi ra được, lúc đó mới trông thấy rõ mà lấy được cái dằm trong mắt bạn ngươi.» (Lời dịch của Stephen Patterson and Marvin Meyer)

Những câu này nói rất giống như câu Mátthêu 7: 1-5 trong Tân Ước: «Ðừng phán xét kẻ khác để không bị phán xét, vì những lời phán xét đó sẽ trở lại với chính mình - và nếu đo lường người khác chính mình sẽ bị đo lường lại. Tại sao chỉ nhìn vào cái dằm nhỏ trong mắt người anh em của mình mà không thấy cái xà trong mắt mình? Hoặc sao lại có thể nói: ‘Ðể tôi lấy cái dằm ra khỏi mắt anh’ trong khi cái xà đang nằm trong mắt mình? Hỡi người giả nhân giả nghĩa, hãy lấy cái xà trong mắt ngươi ra trước, rồi ngươi mới thấy rõ cách gỡ cái dằm ra khỏi mắt anh em của ngươi».

Và có những câu khác trong Phúc Âm Của Thánh Thoma rất giống như những câu nói của Thanh Hải Vô Thượng Sư:

Ðây là thông điệp của Chúa Giê-su nhắc chúng ta tới bài thuyết giảng của Sư Phụ tại Formosa năm 1992, vừa mới đăng trên Bản Tin #148: «Vì chúng ta tu pháp Quán Âm, ánh Sáng bên trong chúng ta là vô lượng, sự thanh tịnh, bình an và tình thương không thể nghĩ bàn. Khi tu hành ở Formosa, không những chúng ta làm lợi ích cho người dân ở Formosa mà ánh Sáng của chúng ta còn lan ra cả toàn thế giới».

Do đó, bài viết đã cho thấy sự liên hệ giữa những lời giảng dạy của các Minh Sư cổ và kim, và thông điệp Chân Lý của Thượng Ðế vượt không gian và thời gian.

Hơn nữa, phần Kinh Thánh mới được khám phá này cho thấy một khía cạnh khác hơn là những bản Kinh Thánh đã được công nhận. Thí dụ, trong Quyển Sách Của Thánh Thoma tiết lộ rằng Chúa Giê-su là một Minh Sư, và Ngài dạy các đệ tử của Ngài: «Chúng ta từ ánh Sáng mà ra, từ nơi mà ánh Sáng tự nó hiện hữu,» và «Nếu ai trở nên toàn vẹn, thì người ấy sẽ đầy ánh Sáng», và «Ai uống từ nguồn sống của Ta sẽ trở nên như Ta, và ta sẽ trở nên người đó, và những điều huyền nhiệm sẽ hiển lộ cho người đó». Hình ảnh uống từ nguồn sống của Chúa ám chỉ việc truyền Tâm ấn - thiền Quán Âm, Thánh Từ hoặc Tiếng thiên đàng của Thượng Ðế.

Do đó, sự khai quật kinh điển như Phúc Âm Của Thánh Thoma giúp chúng ta có một sự hiểu biết đầy đủ, sâu sắc hơn về đời sống của Chúa Giê-su và giáo lý của Ngài. Những quyển như vậy cũng cho độc giả của thế kỷ thứ 21 một sự hiểu biết rõ ràng hơn, Chúa Giê-su là một vị Minh Sư tại thế thời đó, đã mang thông điệp đến để giúp cho con người câu thông trực tiếp với Thượng Ðế bằng cách quán tưởng tới ánh Sáng và Âm Thanh bên trong, giống như lời của Thanh Hải Vô Thượng Sư ngày nay.

Comments

Popular posts from this blog

Thánh Kinh Công giáo

100 bài giảng Thánh Kinh (do Đức Cha Khảm)

Thánh Kinh Công giáo