Tin và mê tín
Tin
và mê tín
Tin khác với biết. Khi nói: tin một điều gì, thì đã
giả thiết rằng mình chưa được thấy điều ấy, chưa chứng nghiệm được hay chưa
nhận thấy một cách minh nhiên hay rõ ràng về điều ấy, nhưng mình vẫn xác quyết
điều ấy là có thật.
Vì không thấy điều ấy mà đã xác quyết điều ấy là
thật, thì có hai cách:
1) Sở dĩ xác quyết điều ấy là có thật, vì đã có những
lý chứng hay lập luận xác đáng để kết luận điều ấy là thật. Như vậy là tin một
cách sáng suốt.
2) Cứ xác quyết điều ấy là thật mà không cần một bằng
chứng hay lý luận nào cả. Như vậy là tin một cách ngu muội.
Tin, trong lãnh vực tôn giáo: đối tượng
của niềm tin tôn giáo không phải là những điều hay những chuyện xảy ra, hay là tình
trạng hiện hữu trong thế giới vật lý, tâm lý, hay toán học,
mà con người không kiểm chứng được.
Đối tượng của niềm tin tôn giáo là những chuyện xảy
ra hay tình trạng hiện hữu trong thế giới thần linh hay tâm linh vốn
vượt khỏi khả năng kiểm chứng, thậm chí vượt khỏi kinh nghiệm, vượt khỏi khả
năng quan niệm hay diễn tả của ngôn ngữ con người, nhưng với niềm tin, người ta
xác quyết là có thật.
Không thể thấy, không thể chứng nghiệm hay kiểm chứng
thì làm sao xác quyết được là có thật?
Hành trình để đi đến xác quyết những đối tượng trong
thế giới thần linh hay tâm linh là thật dù không kiểm chứng được chia ra thành
hai ngả: Đức tin và mê tín.
● Đức tin là tin một điều liên quan
đến thần linh hay thế giới thần linh sau khi đã trải qua một hành trình
(process) bằng những lý luận hợp lý về sự khả tín của điều ấy.
● Mê tín là tin một điều liên quan đến
thần linh hay thế giới thần linh mà không cần lý luận, hay lý luận không
vững chắc về sự khả tín của điều ấy.
Tuy nhiên, đức tin trong tôn giáo lại chia thành hai
loại:
● Đức tin đích thật là đức tin được
thể hiện ra thành cuộc sống, thành hành động phù hợp với điều mình tin. Người
có đức tin đích thực thì sẵn sàng trả giá cao bằng những hy sinh thật sự cho
niềm tin của mình.
● Đức tin giả hiệu được thánh Giacôbê
gọi là «đức tin chết» hay «đức tin không có việc làm» (Gc 2:17.26). Nhiều người tuyên xưng
đức tin một cách mạnh mẽ, xác quyết, khiến họ lầm tưởng đức tin của họ rất mạnh
mẽ. Nhưng khi gặp thử thách, họ mới nhận ra đức tin của họ rất yếu, thậm chí
dường như họ chẳng hề tin mà họ cứ tưởng họ có đức tin.
Đối với hai loại đức tin trên, nhiều thần học gia
phân biệt hai loại đức tin: cheap faith & expensive faith (đức tin rẻ tiền & đức tin đắt giá). Đức tin mà Kinh thánh đòi hỏi để được cứu rỗi là thứ đích thật, thứ đắt giá chứ không phải thứ giả hiệu hay rẻ tiền.
Comments
Post a Comment