Lập trường của cha Raimon Panikkar về tình trạng đa tôn giáo trên thế giới
Lập trường của cha
Raimon
Panikkar
về tình trạng đa tôn giáo trên thế giới
Tình trạng
đa tôn giáo trên thế giới là một thực tại rõ ràng không thể chối cãi. Theo quan
điểm của nhiều giáo phái Kitô giáo, thì người không tin vào Đức Giêsu Kitô thì
chắc chắn không thể được cứu rỗi. Nhưng quan điểm ấy không phải luôn luôn hữu
lý. Nếu như thế thì tại sao Thiên Chúa lại để Đức Giêsu đến trần gian này quá
trễ, sau Đức Phật, Đức Khổng, v.v... cả 4 đến 5 thế kỷ. Các tôn giáo lớn như Ấn
giáo, Phật giáo, Đạo giáo… đã phát triển và lớn mạnh trước khi Kitô giáo xuất
hiện. Nói chung, một khi người ta đã tin chắc chắn vào một tôn giáo nào đó, thì
tôn giáo đến sau không phải dễ dàng gì thay thế niềm tin của họ. Việc các tôn
giáo đến trước Kitô giáo chắc chắn không thể ngoài ý muốn của Thiên Chúa, khi
mà Đức Giêsu xác định rõ ràng: «hai con
chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất
ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh
em, Người cũng đếm cả rồi» (Mt 10:29-30). Nếu đó không phải là ý muốn của
Thiên Chúa, thì việc Ngài để Đức Giêsu đến quá trễ sau các giáo chủ tôn giáo
khác quả là thiếu khôn ngoan. Mà Ngài thì không thể thiếu khôn ngoan!
Để giải
đáp vấn nạn trên, chúng ta có Linh mục Raimon Panikkar (1918-2010), ngài có cha là
người Ấn và mẹ là người Tây Ban Nha. Ngài thuộc Giáo Hội Công giáo La Mã, là người đề xướng việc đối thoại liên
tôn giáo, và chuyên nghiên cứu về việc đối chiếu các tôn giáo (comparative religions). Ngài đại diện
điển hình và xứng đáng nhất cho chủ trương «Đức
Kitô cùng với các tôn giáo».
Chúng ta thử tìm hiểu lập trường của Linh mục Raimon Panikkar và cách ngài giải đáp vấn nạn trên.
Phân biệt giữa Đấng Kitô phổ quát và
Đức Giêsu cá biệt
Theo cha,
không tôn giáo nào có thể tham dự đối thoại nếu ngay từ đầu tôn giáo đó quả
quyết rằng mình là mẫu mực chuẩn xác cho tất cả các tôn giáo khác. Hẳn
nhiên các tôn giáo khác sẽ cho đó là một lập trường kiêu hãnh, đầy tự mãn. Lập
trường «khó chơi» này sẽ dập tắt tất cả mọi cuộc đối thoại, mọi thiện
chí đối thoại. Và nếu có lập trường dứt khoát như thế, thì trong cuộc đối
thoại, chỉ có truyền giáo chứ không có đối thoại đúng nghĩa.
Hiện nay,
thế giới đang chuyển biến đòi buộc phải giải thích lại cách hiểu cổ
truyền về tính duy nhất và phổ quát của Đấng Kitô. Vì thế, cha
Panikkar đề nghị phải phân biệt giữa Đấng Kitô phổ quát và Đức Giêsu cá
biệt.
Chỉ có một Đấng Kitô phổ quát duy nhất
Theo cha
Panikkar, Đấng Kitô là «một biểu tượng sống động của toàn thể thực tại: con
người, thần linh và vũ trụ». Ngài là trung tâm của thực tại, là điểm kết
tinh để con người, thần linh và vật chất có thể xoay quanh đó mà phát triển.
Ngài là sự duy nhất sinh động của Thiên Chúa, con người và thế giới. Ngài là
LỜI (logos), là hiện thân Đấng Tối Hậu, là sự thông ban Đấng
Tối Hậu, là «hành vi lịch sử của Chúa Quan Phòng đang thôi thúc nhân
loại qua nhiều đường nẻo khác nhau, đưa đời sống con người tới chỗ viên mãn».
Chỉ có một Đấng Kitô duy nhất, là tư tế với chức tư tế vũ trụ, soi
sáng và thôi thúc khắp nơi, trong tất cả mọi dân tộc và mọi nền văn hóa (xem RAIMON PANIKKAR, The Unknown
Christ of Induism, Orbis books,1981, p.27).
Đấng Kitô phổ quát đã trở thành Đức
Giêsu cá biệt
Đấng Kitô
– Ngôi Lời – này, Đấng vĩnh cửu và phổ quát này đã nhập thể thành Đức Giêsu
Nazarét. Nhưng sự nhập thể này không phải là sự nhập thể duy nhất và
chuẩn mực. Trong những năm gần đây, cha Panikkar xác nhận rằng không có
một cái tên lịch sử nào có thể được coi là tên cuối cùng của Đấng Kitô.
Đấng này không thể được cụ thể hóa hay hiện thực hóa trong một nhân vật chỉ
có tính cách lịch sử, đến nỗi trên dương gian này ta sẽ không bao giờ
biết Đấng Kitô hoàn toàn đầy đủ cả. Và Đấng Kitô phổ quát ấy đã trở thành
cụ thể nơi Đức Giêsu, và đối với các Kitô hữu, Đức Giêsu ấy chính là hình
ảnh tối hậu của Đấng Kitô đó. Đó là điều mà mọi Kitô hữu phải cương
quyết khẳng định. Họ phải tin vững chắc rằng ơn cứu độ của mình là
do Ngài.
Đấng Kitô còn có những danh hiệu khác
Nhưng nếu
Đức Giêsu chính là Đấng Kitô, thì điều đó không có nghĩa là Đấng Kitô chỉ là
Đức Giêsu. Trong lịch sử, nơi những nền văn hóa khác, cụ thể là trong
kinh điển của các tôn giáo khác, Đấng Kitô có thể được gọi bằng nhiều
danh hiệu khác như Rama, Krishna, Isvara, Purusha, Tathagata… Nhưng không
vì thế mà Đức Giêsu cá biệt kia không còn luôn luôn cần thiết và thích đáng
nữa.
Quan điểm của cha Panikkar ngược với
Kinh Thánh?
Quan điểm
của cha Panikkar tuy có thể chấp nhận được đối với những người đã từng tìm hiểu
sâu xa các tôn giáo hay những người đã từng đối thoại nhiều với các tôn giáo
khác, nhưng rất khó chấp nhận đối với các Kitô hữu có đức tin truyền thống, nhưng
không biết nhiều và tương đối chính xác về các tôn giáo khác. Vì nhiều chỗ
trong Kinh Thánh xác định sự duy nhất của Đức Giêsu. Chẳng hạn như:
- «Chỉ
có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức
Giêsu Kitô» (1Tm 2:5).
- «Dưới
gầm trời này, không một danh nào khác
được ban cho nhân loại để chúng ta nhờ đó mà được cứu độ» (Cv 4:12).
Như vậy,
nếu cứ hiểu theo nghĩa đen của Kinh Thánh thì lập trường của cha Panikkar khó
đứng vững.
Có nên hiểu Kinh Thánh theo nghĩa đen?
Nhưng chấp
cứng vào nghĩa đen của Kinh Thánh và coi lời Kinh Thánh là tuyệt đối, bất di
bất dịch, có phải là thái độ đúng đắn nhất không? Vì: nếu hiểu theo
nghĩa đen lời Đức Kitô: «Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi,
thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi được» (Mt 5:18) được nói
trong bối cảnh Do Thái giáo, thì ắt nhiên Luật Môsê (tức Lề
Luật) sẽ còn phải được giữ mãi đến tận thế. Nhưng thực ra, chỉ sau khi
Chúa Giêsu về trời một thời gian ngắn, các Tông Đồ đã bãi bỏ Lề Luật này (xem Cv
15, đặc biệt 15:1-2.19-20.28-29). Làm sao có
thể hiểu theo nghĩa đen lời Thiên Chúa hứa cho Abraham rằng con cháu ông sẽ
đông như sao trên trời, cát dưới biển? (x. St 15:5). Chính vì
hiểu theo nghĩa đen và tuyệt đối hóa lời dạy của Kinh Thánh (x. Gs 10:12-14) mà các
phán quan thời Trung Cổ đã nhất quyết cho rằng mặt trời phải quay chung quanh
trái đất, nên đã thiêu sống oan linh mục Bruno và kết án chung thân thật bất
công thầy dòng Galilêô.
Hiểu Kinh Thánh theo nghĩa đen có thể
dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng
Chính vì
hiểu một số câu Kinh Thánh theo nghĩa đen, mà nhiều giáo phụ, cũng như Luther,
Calvin, và rất nhiều giáo phái Tin Lành cho rằng bản tính con người đã hoàn
toàn hư hỏng, nên họ khinh rẻ phần tự nhiên trong con người, coi rẻ những
nỗ lực tự nhiên của con người đóng góp vào việc cứu chuộc, và chỉ coi trọng
những gì là siêu nhiên xuất phát từ Thiên Chúa mà thôi. Họ cho rằng mọi cố
gắng tự nhiên của con người đều vô giá trị, thậm chí còn là tội lỗi nữa,
nhất là khi dùng những cố gắng riêng của mình để tìm hiểu về Thiên Chúa, vì như
thế là kiêu ngạo. Theo họ, nếu có gì tốt đẹp trong các tôn giáo khác, thì điều
tốt đẹp ấy phải được gọi là xấu, là tội lỗi mới đúng.
Và cũng
chính vì hiểu lời Kinh Thánh theo nghĩa đen mà người Do Thái xưa quan niệm Đấng
Mêsia phải là người thuộc hoàng tộc, có vương quyền trần gian với binh hùng
tướng mạnh, và sẽ mộ binh khởi nghĩa để cứu dân Do Thái khỏi ách thống trị của
đế quốc Rôma. Từ đó họ đi đến một tai hại khủng khiếp là không thể chấp nhận
«anh Giêsu nghèo hèn kia» chính là Đấng Mêsia phải đến. Và họ đã giết
Ngài một cách thảm thương trên thập giá…
Như vậy,
hiểu Kinh Thánh theo nghĩa đen đôi khi dẫn đến những tai hại nghiêm trọng. Và
đó chính là điều mà Giáo Hội cũng như mọi Kitô hữu nên rút kinh nghiệm, để
tránh những chuyện đáng tiếc tương tự như trên có thể xảy ra.
Làm sao giải thích… ?
Vậy, câu
Kinh Thánh của Phaolô: «Chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài
người: đó là một con người, Đức Giêsu Kitô» (1Tm 2:5) hay câu «Dưới
gầm trời này, không có một danh nào khác được ban cho nhân loại để chúng ta nhờ
đó mà được cứu độ» (Cv 4:12), phải được hiểu thế nào?
– Lập
trường của cha Panikkar không có gì trái với tinh thần những câu Kinh
Thánh này, vì cha chủ trương chỉ có một Đấng Kitô duy nhất phổ quát, không
có hai, nhưng Đấng Kitô này đã mặc lấy nhiều hình thức cá biệt khác nhau
trong suốt dòng lịch sử của nhân loại, trong những nền văn hóa khác nhau,
tại nhiều nơi khác nhau. Đức Giêsu tại Do Thái chỉ là một hình thức cá
biệt của Ngài. Trong câu Kinh Thánh Cv 4:12, chữ «danh» không
chỉ có nghĩa là một tên gọi, vì trong văn hóa Do Thái, «danh» hay «tên»
còn có nghĩa là chính bản thân người có tên ấy. Do đó, câu «không có một
danh nào khác» (Cv 4:12) phải được hiểu là «không có
một Đấng nào khác», và Đấng ấy chính là Đấng Kitô phổ quát, trung gian duy
nhất giữa Thiên Chúa và con người. Tuy nhiên, Đấng Kitô không phải chỉ là
Đức Giêsu ở Nazarét, mà Ngài có thể mặc lấy nhiều thân xác khác, trong
những nền văn hóa khác. Tất cả những thân xác ấy chỉ là một Đấng Kitô duy
nhất, là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người.
Rút kinh nghiệm trong Cựu Ước
Hiểu như
thế quả không có gì là quá đáng khi so sánh với cách hiểu hiện nay về
lời Thiên Chúa hứa với Abraham là sẽ cho ông «sinh ra một dòng dõi nhiều như
sao trời, và như cát ngoài bãi biển, không tài nào đếm được» (Dt 11:12). «Dòng
dõi» ở đây không thể hiểu theo nghĩa thường hiểu là «con
cháu theo máu mủ» (vì hiểu theo cách này thì rõ ràng cho tới nay lời
hứa đó chưa được thực hiện), mà phải hiểu là «con cháu theo niềm tin».
Thời Chúa Giêsu trở về trước, có lẽ không người Do Thái nào có thể chấp
nhận được lối giải thích «trớ trêu» như thế. Nhưng lối «trớ trêu»
ấy lại đúng, và lối «thường tình» kia ngờ đâu lại sai!
Hay làm
sao người Do Thái thời Chúa Giêsu trở về trước lại có thể hiểu những lời tiên
tri của các ngôn sứ về Đấng Mêsia như chúng ta hiểu hiện nay được? Cứ
theo nghĩa đen của Kinh Thánh thì khi Đấng Mêsia tới, Ngài sẽ phải có binh hùng
tướng mạnh để giải phóng Dân Ngài khỏi ách thống trị ngoại bang, đem lại vinh
quang cho «Dân tộc riêng» của Ngài. Còn cách hiểu nào khác có thể chấp
nhận được nữa? Nếu có ai giải thích cách nào khác – chẳng hạn như cách chúng ta
đang hiểu hiện nay – chắc chắn người thời đó không ai chấp nhận được. Nhưng
ngờ đâu cách không thể chấp nhận được ấy lại xẩy ra, và cách mà ai cũng
nghĩ sẽ xảy ra và mong muốn sẽ xảy ra, trong thực tế đã không xảy ra!
Tương tự
như thế, không hẳn hai câu Kinh Thánh 1Tm 2:5 và Cv 4:12 sẽ được ứng
nghiệm đúng theo nghĩa đen của chúng.
Muốn hiểu Kinh Thánh, cần có tình yêu
và lòng khiêm nhượng
Sự gì đã
từng xảy ra trong lịch sử cũng có thể sẽ xảy ra trong tương lai. Do đó,
chúng ta không nên chấp cứng vào thành kiến có sẵn của mình kẻo sẽ vấp
phải những lầm lỡ tai hại như những người Do Thái xưa, lầm lỡ đến nỗi đã giết
chính Con độc nhất của Thiên Chúa. Không khéo chúng ta sẽ vấp phải «hòn đá
vấp phạm» (Is 28:16; Rm 9:33) của Thiên Chúa chỉ vì hiểu lời Chúa
theo nghĩa đen.
Để hiểu
Kinh Thánh, chúng ta cần phải có tình yêu và lòng khiêm nhường. Tính
kiêu ngạo muốn đề cao cá nhân hay tập thể của mình, đồng thời muốn hạ thấp
người khác, và tính thiếu yêu thương không muốn chia sẻ hạnh phúc và vinh quang
của mình cho người khác hay tập thể khác có thể khiến người ta hiểu sai Lời của
Thiên Chúa, Đấng vốn là Tình Yêu, Đấng không ưa những tâm tình kiêu căng (x. Lc 18:9-17), bè phái (x. Mc 9:38), Đấng
thích mặc khải chân lý cho những tâm hồn khiêm nhường (x. Mt 11:25).
Phải có cùng
một tâm tình, ý hướng với Đức Kitô, ta mới có thể hiểu đúng ý Ngài. Làm sao
ta có thể hiểu đúng ý Ngài khi ta cứ muốn tôn mình lên, tôn tập thể của mình
lên, đồng thời hạ thấp người khác xuống? hay khi trong vô thức, ta chỉ
muốn Thiên Chúa ban cứu rỗi cho những người trong tôn giáo của mình thôi? Những
tâm tình ích kỷ và kiêu căng như thế luôn luôn bị Đức Kitô kết án, Ngài
luôn luôn kết án những kẻ thích kết án người khác (x. Mt 7:1;
Lc 18:9-17), những kẻ không có lòng thương xót (x. Mt 18:23-35;
25:41-46).
Đấng Kitô trong các tôn giáo khác
Như vậy, theo cha Panikkar, Đấng Kitô phổ quát
có thể tự biểu hiện một cách cá biệt trong các tôn giáo khác, để mặc khải và
cứu độ con người một cách thích ứng và phù hợp với các nền văn hóa cá
biệt của nhân loại. Do đó, các tôn giáo ấy cũng có thể là những tôn giáo tuy
khác với Kitô giáo, nhưng cũng phát xuất từ Thiên Chúa. Vì thế, các tôn
giáo cần phải đối thoại và tìm hiểu lẫn nhau để có một nhãn quan đầy đủ và
đa diện hơn về Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không phải là một thực tại đơn
diện (một mặt) để nhãn quan của một tôn giáo có thể bao trùm hết
được. Nghĩ rằng những «chân lý» trong tôn giáo của mình có thể bao trùm
được hết cả Thực Tại Thiên Chúa thì quả là «coi trời bằng vung», là
thái độ «ếch ngồi đáy giếng». Thái độ đó là thái độ vô tình vũ
nhục Thiên Chúa.
Kết luận
Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu rỗi. Nếu
chỉ những ai tin vào Đức Giêsu Kitô mới được cứu rỗi, thì quả thật, ý muốn ấy
của Thiên Chúa không thực hiện được, vì hiện nay, theo thống kê năm 2023, thế
giới có trên 8 tỉ người (1*) nhưng số người mang danh là Kitô hữu chỉ có 2,38 tỉ (2*), tức 29,75%,
tức chưa được 1/3 thế giới.
(*1) x. https://www.worldometers.info/world-population/)
(*2) x. https://worldpopulationreview.com/country-rankings/religion-by-country.
Việc chấp nhận 2/3 số người còn lại không được cứu mà
bị phạt, xem ra không phù hợp với nhận thức chung (common sens) của con người.
Chỉ những ai ít tình thương và ít bao dung mới dễ dàng chấp nhận điều ấy.
Vấn đề mấu chốt, đó là cách hiểu những lời trong Kinh
thánh. Nếu hiểu theo nghĩa đen đồng thời coi lời Kinh Thánh chính xác chỉ có
một ý nghĩa duy nhất tương tự như những định lý toán học, thì chắc chắn lập
trường của cha Raimon Panikkar là
không thể chấp nhận được. Nhưng nếu cho rằng không nên hiểu Kinh thánh theo
nghĩa đen, mà phải đặt mình vào cùng một tâm tình, cùng một ý hướng với Đức
Kitô để hiểu lời của Ngài, thì sẽ dễ chấp nhận lập trường của cha Panikkar.
Nguyễn Chính Kết
Comments
Post a Comment