Thực Tại Tối Hậu trong Triết Đông và Triết Tây

 

Thực Tại Tối Hậu
trong Triết Đông và Triết Tây

 

Hình trong trang https://histoire-image.org/etudes/fete-etre-supreme-20-prairial-ii-8-juin-1794 mô tả quang cảnh Vườn Quốc Gia và cách trang trí trong ngày lễ tôn vinh Đấng Tối Cao (hay Thực Tại Tối Hậu) tại Công trường Champ-de-Mars (Pháp) ngày 8 tháng 6 năm 1794.

Vì Thực Tại Tối Hậu là một thực tại siêu nghiệm, vượt khỏi mọi khả năng diễn tả của ngôn ngữ con người. Nhưng con người vẫn có nhu cầu gọi tên và mô tả thực tại ấy trong giới hạn của mình, tùy theo ngôn ngữ, nền văn hóa, triết lý nền tảng khác nhau của mỗi dân tộc. Sự khác biệt trong cách mô tả Thực Tại Tối Hậu giữa các dân tộc chủ yếu dựa trên hai triết lý nền tảng chính là Triết Đông và Triết Tây.

Về Thực Tại Tối Hậu, giữa Triết Đông và Triết Tây có sự khác biệt căn bản này:

● Triết Đông thì coi Thực Tại Tối Hậu là một Thực tại siêu nghiệm, vượt khỏi mọi kinh nghiệm của con người, bất khả tư nghị, không thể quan niệm hay diễn tả bằng ngôn ngữ của con người được. Mọi từ ngữ của con người hầu như chỉ tương ứng với những thực tại mà con người kinh nghiệm được. Không một kinh nghiệm hay từ ngữ nào của con người thật sự tương ứng được với Thực Tại Tối Hậu cả. Giống như không một kinh nghiệm nào của người mù bẩm sinh về mầu sắc tương ứng với kinh nghiệm về màu sắc của người sáng mắt cả. Về vấn đề này, Lão Tử có một tuyên ngôn của Triết Đông : «Đạo khả đạo, phi thường đạo; Danh khả danh, phi thường danh». 

«Đạo khả đạo, phi thường đạo» nghĩa là Đạo (hay Thực Tại Tối Hậu) mà diễn tả ra được thì đó không phải là «Thường Đạo» tức Đạo bất biến, mà chỉ là định thức của con người về Đạo thôi. Cho nên cần phải phân biệt giữa Đạo và cách con người diễn tả về Đạo.

Về nhận định «Danh khả danh, phi thường danh», trong sách Xuất Hành của Kinh thánh Kitô giáo, khi Môsê hỏi tên của Yavê để nói với dân chúng về Yavê, họ cần phải biết tên của Ngài. Khi Môsê hỏi tên Ngài, thì Yavê không xưng tên mà chỉ trả lời: «Ego sum qui sum», «I am who am», «Je suis qui suis», «Ta là Đấng Ta là // Ta là Đấng hiện hữu», vì Ngài không có tên nào cho con người cả. Vì thế, Môsê phải đặt tên cho Ngài là Yavê (nghĩa là «Đấng hiện hữu» như Ngài đã nói về bản chất của Ngài), chứ không phải Ngài tên là Yavê.

● Triết Tây thì quan niệm Thực Tại Tối Hậu có thể diễn tả và xác định chính xác được bằng ngôn ngữ của con người. Vì thế các nhà Thần học Kitô giáo, vốn chịu ảnh hưởng sâu nặng của Triết Tây, đã xác định Thiên Chúa thì thế này, thế kia, ai nói khác đi đều có thể bị cho là không đúng, là lạc giáo.

Những người thâm hiểu về Triết Đông thì sẽ coi những cách diễn tả và xác định «chắc như bắp» khi mô tả Thực Tại Tối Hậu, là một chuyện ngây ngô, buồn cười.

Trước thực tại siêu nghiệm là Thực Tại Tối Hậu ấy, các tôn giáo là những phiên bản khác nhau nói về thực tại ấy. Con người có nhu cầu tâm linh là nhu cầu tìm hiểu và thông giao với Thực Tại Tối Hậu ấy. Trong các dân tộc với những nền văn hóa khác nhau, có những người đạt đạo, nghĩa là những người có kinh nghiệm hay thực chứng về Thực Tại Tối Hậu ấy và nhờ thông giao với thực tại ấy, họ trở nên bình an, hạnh phúc và có sức mạnh tâm linh phi thường. Khi nói về Thực Tại Tối Hậu mà mình giác ngộ và chứng nghiệm được với người khác, thì điều bất tiện là không có ngôn ngữ nào của con người thích hợp để diễn tả. Nhưng để giúp người khác hiểu được ít nhiều về thực tại ấy, người đã chứng nghiệm phải tạm sử dụng những ý niệm thông thường trong nền văn hóa của dân tộc mình để diễn tả thực tại siêu nghiệm ấy. Những người giác ngộ ấy thuộc nhiều dân tộc với nhiều nền văn hóa khác nhau, làm sao có thể diễn tả giống nhau về thực tại siêu nghiệm ấy được?

Nhất là những người giác ngộ ấy đâu phải người nào cũng giác ngộ được toàn thể Thực Tại Tối Hậu ấy, mà có người chỉ giác ngộ được phần nào thôi, người giác ngộ phần này, người giác ngộ phần khác... Về vấn đề này, Đức Phật đã minh họa bằng câu chuyện những ông mù rờ voi, người rờ vào phần này, người rờ vào phần khác, nên cãi nhau vì ai cũng cảm thấy chính mình đã thật sự rờ vào con voi chứ đâu phải chỉ nghe người khác nói.

Để dễ hiểu vấn đề này, ta có thể dùng một minh hoạ: Vì rất nhiều người tôn sùng Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu, nên người ta muốn vẽ hình hay tạc tượng Ngài để kính nhớ hay tôn sùng. Nhưng chẳng ai biết gương mặt Đức Mẹ ra sao, Ngài mặc quần áo thế nào, vì thời ấy chẳng ai chụp hình hoặc vẽ hay tạc tượng Đức Mẹ cả. Vì thế các nhà hoạ sĩ hay điêu khắc ở những dân tộc khác nhau với những nền văn hóa khác nhau đã vẽ hay khắc hình Đức Mẹ theo sự tưởng tượng của mình.  Vì thế có nhiều hình tượng Đức Mẹ khác nhau: Đức Mẹ La-Vang, Đức Mẹ Bến Tre, Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Mẹ Fatima, Đức Mẹ Guadualupe (của Mexico), Đức Mẹ Czestochowa (của Balan), v.v... 

Làm sao những hình hay tượng ấy giống nhau được? Thật là ngây ngô khi ông hoạ sĩ nổi tiếng nhất thế giới tuyên bố rằng: Ai vẽ hay tạc tượng nào khác với hình hay tượng của tôi thì đều sai hết. Hình hay tượng của tôi mới đúng là dung mạo thật của Đức Mẹ.

Có điều người ta có thể biết về Đức Mẹ rằng Ngài đức hạnh, thương người, trong sạch, v.v... nên tất cả mọi hình hay tượng Đức Mẹ dù khác biệt nhau thì đều là hình phụ nữ dễ thương dễ mến, từ bi nhân hậu, và thường là phụ nữ rất đẹp. Tôi thì cho rằng Thiên Chúa không nhất thiết phải tạo dựng Đức Mẹ rất đẹp như các hình tượng người ta tạo, vì Thiên Chúa muốn Mẹ Đức Giêsu phải là người có tâm hồn tuyệt đẹp chứ không nhất thiết phải có một thân xác tuyệt đẹp đâu.

Dù những hình tượng Đức Mẹ kể trên có hình dạng khác nhau, thì người Công giáo khi quỳ trước những tượng khác nhau ấy để cầu nguyện, họ đều nhìn nhận những tượng ấy chính là tượng của một người duy nhất là Đức Maria mà họ kính mến, tôn sùng. Dù những tượng ấy khác nhau có thể rất nhiều, thì không bao giờ họ đặt vấn đề là tượng nào mới đúng, tượng nào thì không phải là Đức Mẹ. Tại sao người ta không làm tương tự như thế khi đối với những danh hiệu khác nhau, với những mô tả khác nhau về Thực Tại Tối Hậu vừa siêu việt vừa siêu nghiệm vượt khỏi mọi ngôn ngữ và quan niệm của con người?

Cũng thế, những diễn tả về Thực Tại Tối Hậu của các nhà đạt đạo thuộc những dân tộc khác nhau với những nền văn hóa khác nhau không thể hoàn toàn giống nhau được, nhưng chắc chắn phải có những nét cốt yếu giống nhau. Những nét cốt yếu này mới chính là điều quan trọng mà những người muốn tìm hiểu hay tiến bộ về tâm linh phải nắm vững.

Nhưng rất tiếc là rất nhiều nhà thần học hay những vị kinh sư trong các tôn giáo lại không coi là quan trọng những điều cốt yếu này, mà cứ quan trọng hoá những điều phụ thuộc khác nhau ấy, nên họ không sao nhìn thấy được sự nhất quán giữa các tôn giáo, nghĩa là các tôn giáo đều có chung những điều cốt yếu vốn là bản chất của Thực Tại Tối Hậu duy nhất ấy [1*].

[*1] Xin tham khảo thêm bài «Cốt tủy chung của các tôn giáo» (https://tamlinh-tongiao.blogspot.com/2022/12/cot-tuy-chung.html)

Tuy nhiên, do nhu cầu hiểu biết của con người vốn đòi hỏi sự rõ ràng, cụ thể, nên những tôn giáo nào càng cụ thể hoá và xác định chắc chắn về Thực Tại Tối Hậu ấy thì càng thích hợp với đại đa số quần chúng nhân loại. Về nhu cầu này thì Kitô giáo lại là tôn giáo đáp ứng được cách tốt nhất. Và tôi nghĩ, đó là cách rất thích hợp để giúp phát triển tâm linh cho đại đa số nhân loại đang ở trong mức độ tâm linh hiện có. Nhưng khi trình độ tâm linh và nhận thức của nhân loại cao hơn, thì đại đa số nhân loại cần một cách mô tả về Thực Tại Tối Hậu thích hợp với trình độ tâm linh của họ vào thời điểm ấy.

Điều rất quan trọng là chúng ta cần phải phân biệt giữa Chân Lý và cách diễn tả hay cách định thức của Chân Lý. Chân Lý thì duy nhất và bất biến, nhưng cách định thức về Chân Lý thì đa dạng và thay đổi tuỳ theo nhiều yếu tố: trình độ tâm linh, trình độ nhận thức, các nền văn hóa và triết lý nền tảng khác nhau...

Giả như Kitô giáo từ nguyên thủy không được truyền bá ở Tây Phương mà ở Đông Phương như tại Ấn Độ hay Trung Hoa chẳng hạn, thì thần học Kitô giáo lúc ấy có giống như thần học Kitô giáo đang được dạy trong các chủng viện Việt Nam không? Với lương trị tự nhiên mà Trời ban cho tôi (tức common sense), tôi chắc chắn rằng không. Các nhà thần học đầu tiên ở Tây Phương chịu ảnh hưởng của văn hóa hay triết lý Hy-La (vốn khởi nguồn từ những tôn giáo vũ trụ (cosmic religions)[2*] của Hy Lạp và La Mã, đã giải thích Thánh Kinh trên nền tảng văn hóa và triết lý ấy. Nhưng nếu Kitô giáo từ nguyên thủy được truyền bá tại Ấn Độ hay Trung Hoa chẳng hạn, thì việc giải thích Thánh Kinh trong khung cảnh văn hóa và triết lý Đông Phương (vốn phát xuất từ những triết lý hay tôn giáo siêu vũ trụ (metacosmic religions)[2*] chắc chắn không thể giống như cách giải thích của những người chịu ảnh hưởng văn hóa và triết lý Hy-La được.

[*2] Tôn giáo vũ trụ (cosmic religions) và tôn giáo siêu vũ trụ (metacosmic religions) là quan niệm của Linh mục Aloysius Pieris, một nhà thần học Á Châu tại Sri Lanka, được trình bày trong tác phẩm «An Asian Theology of Liberation» (Thần học Á Châu về Giải thoát) (Orbis Books, 1988).   

Tôn giáo vũ trụ có tính cách bản địa, cổ truyền, gắn bó sâu sắc với thiên nhiên, chu kỳ vũ trụ, và đời sống cộng đồng; không  có hệ thống giáo lý chặt chẽ hay khái niệm siêu việt rõ ràng, và không có khái niệm rõ rệt về sự tồn tại sau khi chết. Chẳng hạn như những tôn giáo của Hy Lạp thờ các thần như Zeus, Apollo, Hades, Artemis, Athena, v.v... và của La Mã tôn thờ những vị thần như Jupiter, Neptune, Apollo, Diana, Venus, Mercury, v.v...  

Tôn giáo siêu vũ trụ có nguồn gốc khải huyền, xuất phát những người đắc đạo hay giác ngộ, nhấn mạnh đến những thực tại siêu việt, siêu nghiệm, vượt lên trên trật tự tự nhiên, nhấn mạnh đến sự tồn tại và cứu ánh của con người sau khi chết. Chẳng hạn như Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Lão giáo, Veda giáo… Tất cả những tôn giáo siêu vũ trụ trên đều chủ trương tôn thờ hay giác ngộ một thực tại vừa siêu việt vừa siêu nghiệm được gọi bằng những danh hiệu khác nhau, nhưng chỉ là một thực tại duy nhất mà chúng ta có thể gọi là Thực Tại Tối Hậu (xin xem chú thích [*1] ở trên).

Sự khác biệt giữa triết lý Đông Phương và Tây Phương xin được trình bày trong một bài khác: «Những tiền đề để suy tư» (https://123tamlinh.blogspot.com/2023/08/nhung-tien-de-suy-tu.html). 

Nguyễn Chính Kết


Comments

Popular posts from this blog

Thánh Kinh Công giáo

100 bài giảng Thánh Kinh (do Đức Cha Khảm)

Suy tư về Thực Tại Tối Hậu