Hành Trình Theo Dấu Chân Phaolô
Hành
Trình Theo Dấu Chân Phaolô
Bernard Nguyên-Đăng
Ngần ngại, do dự, muốn
viết...rồi thôi...
Vì viết, tốn khá nhiều
thì giờ, công sức. Viết cho ai đọc đây?
Viết một chủ đề nóng
bỏng, lắm người muốn viết, không nhất thiết là để được hàng vạn, triệu cái [like]
nơi Youtube; nhưng, viết một chủ đề về tôn giáo, đức tin, xảy ra 2000 năm
trước, ở một nơi xa tít mù khơi, ít người Việt muốn, hoặc được đặt chân đến,
thật khó.
Viết ít, thì không trọn
ý, thoả lòng. Viết nhiều, ai có thời giờ mà đọc, hoặc có mấy ai có cùng sở
thích, đam mê.
Thôi, liều, cứ viết,
viết như Phaolô đã liều mạng ra đi. đến những nơi vô định, đối diện bao nhiêu
nghịch cảnh và gian truân. Viết như chính mình cũng đã liều mình lao vào một
hành trình với nhiều thử thách-trước hết là tuổi tác, sức khoẻ và tài chành.
Thứ đến, ra đi để làm gì? Chẳng phải vì học hành, bằng cấp, nhu cầu của chức
nghiệp, hay công ăn việc làm-thôi, cứ đi. và đã đi.
Bước vào ngưỡng cửa bảy
mươi, hầu như ai nấy đều an phận tuổi già, sống an nhàn bên gia đình, con và
cháu-nhưng sao, mình lại dấn thân vào một hành trình rất ư dài và nhiều thử
thách, từ thủ đô Hy Lạp-Athens-đến nhiều nơi Phao lô đã một lần đến, sống,
giảng đạo, quan trọng nhất là đã viết nhiều «Thư». Chính những «Thư»
đó đã trở thành một phần rất quan trọng trong kinh thánh tân ước. Có mấy ai tự
hỏi-nếu, không có một «Thư» nào mang
tên, hoặc nhắc đến Phaolô; không có Công Vụ Tông Đồ (CVTĐ), liệu kinh thánh tân
ước sẽ ra sao? Nhiều học giả kinh thánh lại đặt vấn nạn nhức nhối hơn nữa-Không
có Phao lô, liệu có một tôn giáo mang tên Kitô giáo chăng?
Mình viết vội, vì trong
tâm hồn hẵn còn nhiều dư âm của hành trình mấy tháng qua. Không hề có tham vọng
bén mãng đến khá nhiều chủ đề chỉ dành cho các học giả, chuyên gia, giáo sư
kinh thánh tân ước-đan cử như: Phao lô: Nhà thần học tiên phong của Kittô Giáo;
Phaolô: Con người lịch sử; hoặc chủ đề hết sức nóng bỏng và nằm ở một từng mức
cao, vượt xa ngoài tầm của những gì mình muốn viết và chia sẻ: «Phaolô: Người theo đức Giêsu hay là người
sáng lập ra Kitô giáo»? [1]
Tác giả David Wenham, đã
kê khai các sách, tài liệu tham khảo dài đến 15 trang trong tác phẩm của ông «Paul: Follower of Jesus
or Founder of Christianity» Nghĩa là, muốn am hiểu lý luận và góc độ nhận định
của tác giả về chủ để, độc giả nên đọc qua tất cả sách, tài liệu tham khảo kê
khai trong 15 trang đó, trước khi có khả năng, thẩm quyền để đánh giá nội dung
và hướng kết luận của tác giả về Phaolô. Đó là một việc nghiên cứu, công tác
khoa học chuẩn mực và lý tưởng.
Dù sâu hay cạn, cao hay
thấp, ít ra, mình phải viết về...
Phaolô là ai? Câu hỏi hơi thừa và
người nghe cũng chán ngán. Phaolô là ai mà đã thay đổi thế giới qua một tôn
giáo mới, mang tên Kitô Giáo-trong đó có Chính Thống Giáo, Công giáo Roma và
Tin Lành/Anh giáo-các giáo phái dựa vào kinh thánh tân ước làm nền tảng. Hàng
trăm tác giả và hàng vạn sách, tài liệu, biên khảo đã viết về Phaolô. Trong
khuôn khổ giới hạn, mình chỉ tóm gọn, rất ngắn và giới hạn trong góc nhìn một
người Kitô hữu.
Phaolô là ai mà giáo hội
công giáo đã nâng ông lên ngang hàng với vị thánh đứng đầu giáo hội.
Phêrô-người đã được chính Chúa Giêsu tuyển chọn và phong làm người lãnh đạo
tiên phong. Giáo hội lại chọn ngày 29 tháng Sáu để kính nhớ cả hai vị thánh
Phêrô-Phaolô. Hai tên Phêrô và Phaolô đã nối liền với nhau như một chi thể, tuy
hai ông khác nhau về khá nhiều khía cạnh, ngay cả những ngày ngày đầu tiên, lúc
hai người tận mắt gặp nhau, khác nhau về quan điểm, tầm nhìn và sứ mệnh.
Từ nguyên thuỷ, trước
khi giáo hội được hình thành, có hội thánh, có giáo hoàng, có hàng giáo phẩm,
Phêrô và Phaolô đã luôn luôn gắn liền với nhau. Ngay trong các mộ ngoại thành
Roma thời La Mã, được biết đến với tên «Catacombs»,
đầu thế kỷ thứ hai, các tín hữu đầu tiên cũng chỉ biết Phêrô và Phaolô. Có
những hình vẽ trên mộ, chân dung khiêm tốn, không hào quang hay trang phục rực
rỡ của Phêrô và Phaolô đi liền với nhau.
Phaolô là một người Do Thái, sinh ra
năm thứ [5] tại Tarsus, tỉnh Cilicia, sau thiên Chúa giáng sinh, nằm trong
vương quốc Roma-nay, miền đất ấy thuộc về Thổ Nhĩ Kỳ (Turkiye), có quốc tịch
Roma. Ông mất năm 64/65 tại Roma-cũng trong thời vương quốc Roma, triều đại vua
Nero. Trong thư gửi giáo đoàn Philippi, ông khẳng định: «Tôi
còn nữa: được cắt bì vào ngày thứ tám, thuộc dân Israel, thuộc chi phái
Bengiamin, người Hebrew của người Hebrew; về luật pháp, một người Pharisiêu; về
lòng nhiệt thành, một kẻ bắt bớ giáo hội; về sự công chính theo luật pháp,
không chỗ trách được-I have more: circumcisized on the eighth day, of the
people of Israel, of the tribe of Benjamin, a Hebrew of Hebrews; as to the law,
a Pharisee; as to zeal, apersecutor of the church; as to righteousness under
the law, blameless.» (3:4-6).
Ông am tường cả tiếng
Hewbrew và Hy Lạp, theo học trường phái Gamaliel [2] của những người Pharisieu
tại Tarsus, chuyên về luật Do Thái (Acts-CVTĐ 22:3). Nhờ được đào tạo có trường
lớp, truyền thống, ông có thể giảng dạy trong các đền thờ Do Thái ở bất cứ nơi
nào. Truyền thống tư tế Do thái thường sinh sống bằng một nghề theo khả năng và
sở thích để nuôi thân và gia đình-Phaolô cũng vậy, để tránh khỏi gánh nặng cho
cộng đoàn tín hữu tân tòng, mới theo đạo, và cũng để minh chứng rằng, ông không
phải rao giảng để kiếm ăn. Tuy nhiên, Phaolô không để việc sinh nhai chiếm trọn
thời gian của sứ mệnh rao giảng tin mừng.
Qua câu chuyện ông ngã
ngựa và nghe tiếng Chúa (Acts/CVTĐ 9:1-22) khoảng năm 31-36 (Galatians 1:16),
ông thay đổi từ một người chống đối, lên án, trở thành người ông cho rằng, một «Tông Đồ» do chính Chúa đã chọn (1
Corinthians 15:8). Không rõ ông đã được đào tạo, hướng dẫn bao lâu và những
nguồn thông tin, dữ liệu nào về đức Giêsu, nhưng Phaolô đã khẳng định trong Thư
gửi giáo đoàn Galata, . rằng phúc âm do tôi rao giảng không phải là phúc âm
của loài người. Vì tôi đã không nhận được phúc âm từ bất kỳ người nào, tôi cũng
không được dạy phúc âm, nhưng tôi đã nhận được phúc âm qua sự mặc khải của Chúa
Giêsu Kitô-... that the gospel that was preached by me is not man’s gospel. For I did not
receive it from any man, nor was I taught it, but I received it through a
revelation of Jesus Christ.” (Galatians 1:11-12)
Ông đã nhận bí tích
thanh tẩy và trở thành một người tín hữu (Acts/CVTĐ 9:18), tiên phong rao giảng
về đức Giêsu, như một thần học gia, một lý luận gia về một tin mừng, thiết lập
một tôn giáo mới, tuy là gốc, phát xuất từ một nguồn kinh điển, truyền thống Do
Thái, nhưng, ông đã thoát ra, vượt ra xa mọi tầm nhìn, từ không gian đến lý
luận, hệ thống tín lý, mặc dầu trong các Thư, ông trích dẫn khá nhiều về cựu
ước, luật Môi Sen và truyền thống Do Thái. Nhiều «Thư» do chính ông viết: «Tôi, Phaolô, viết những lời chào thăm nầy bằng chính
tay của tôi-I, Paul, write this greetings with my own hand» (1 Corinthian, 16:21) «Hãy xem những trang thư
lớn tôi viết bằng chính tay của tôi-See with what large letters I am writing to you with my
own hand» (Galatians 6:11); hoặc các cộng sự, môn đồ của ông sao chép lại. Những thư
được chọn, liệt kê trong tân ước như: Thư Roma, Galata, Corinto 1 & 2,
Thessalonica, Philemon, Epheso. Một số Thư còn nhiều tranh cãi, chưa được công
nhận Phaolô là tác giả: Thư thứ 2 gửi Thessalocia, Colossian, Ephesian, thư gửi
Timothy 1&2, và thư gửi Titus.
Ông được biết nhiều qua
các «Thư» và Công Vụ Tông Đồ (Luke là
tác giả). Tuy nhiên, cuộc đời của ông thời niên thiếu và trước khi trở thành
tông đồ rao giảng về đức Giêsu, không mấy ai biết. Đã vậy, tài liệu, thông tin
từ trong kinh thánh tân ước không đủ để biết rõ con người và sự nghiệp của
Phaolô. Trong thời gian một năm sáu tháng sống và truyền giáo tại Corintho, ông
sinh sống bằng nghề làm lều (tentmaker) (Acts-CVTĐ 18:3-4). Những hành trình
đến các nơi khác, không rõ ông sinh sống bằng cách nào. Phải chăng, những tín
hữu khá giả, giàu có chăm lo ăn uống và chỗ cư trú của ông. Ngay cái chết của
ông tại Roma, không văn bản, tài liệu, chứng cứ lịch sử nào còn lưu lại. Đôi
khi, có những thông tin trái nghịch nhau về ông, giữa Công Vụ Tông Đồ và các
Thư.
Ông am tường về nhiều
lãnh vực: Tora, Kitô học, cánh chung, thần học, giáo hội học (Tora, Kito
học-eschatology, soteriology, ecclesiology). Một sự khác biệt rất rõ về những
tông đồ, môn đệ được chính chúa Giêsu tuyển chọn, được đào tạo, hướng
dẫn-nhưng, họ là những người dân chài, sống bằng lao động chân tay-trong khi
đó, Phaolô, một người chưa hề gặp chúa Giêsu bằng xương bằng thịt, chưa một lần
chung bàn ăn, chưa một lần nghe chúa giảng dạy, nhất là, chưa một lần tận mắt
chứng kiến những phép lạ Chúa đã làm; nhưng, Phaolô đã thể hiện tính cách,
phong cách, kiến thức và kinh nghiệm sống của người được đào tạo, có bài bản,
lớp lang và một truyền thống Do Thái thuần thục. Đọc Thư ông viết, với giọng
văn, ngôn từ, cách xếp đặt ý tưởng và lý luận, không thể từ chối ông là một
người vô cùng thông minh, lỗi lạc, nhiều kỹ năng và tài năng thiên phú.
Cho đến ngày nay, mọi
chân trời góc biển, nơi nào có bóng dáng người Kitô hữu, nơi ấy, có Phaolô hiện
hữu. [2]
Sứ mệnh của Phaolô là gì? Phaolô viết nhiều, rao
giảng nhiều về đức Giêsu cho dân ngoại (không phải Do Thái), hồng ân của Thiên
Chúa qua đức Giêsu, tuy là người chưa một ngày cùng song hành, ngồi bàn và chưa
một lần được chính đức Giêsu tuyển chọn làm tông đồ khi Ngài còn sống, rao
giảng tin mừng tại Galileo, đừng nói chi được giao phó sứ mệnh rao giảng tin
mừng, ơn cứu độ, thiết lập một tôn giáo mà nền tảng và căn nguyên thần học mang
tên duy nhất một người-đức Giêsu. [3] Công Vụ Tông Đồ và các Thư chứng minh, sứ
mệnh chính của Phaolô là rao giảng tin mừng cho người [ngoài] Do Thái. Phaolô
như là một nhà ngoại giao uyên bác, rành tâm lý và có một sức hấp lực, đặc biệt
là khả năng thích nghi, hội nhập rất cao. Do đó, ông là người tông đồ duy nhất
thành công trong sứ vụ, sứ mệnh, thay đổi toàn miền đất Hy Lạp, từ thờ đa thần,
trở thành độc thần-đức Giêsu. Cứ nhìn vào Hy Lạp ngày nay, từ một nước thờ đủ
loại thần linh, một nước có rất nhiều thần thoại, Kitô giáo đã trở thành quốc
giáo-98 phần trăm dân số là tín hữu Kitô giáo [4]
Phaolô đã ra đi rao giảng đến đâu,
bao nhiêu chuyến? [4]
Phaolô có bốn (4) hành
trình lâu và dài chính thức đi rao giảng tin mừng. Ông đi khá nhiều nơi, suốt
từ năm 49 đến năm 64/65, nhưng được chỉ ghi nhớ nhiều qua các thư gửi cho các
giáo đoàn. Không một thư, tài liệu, văn bản gốc được lưu lại, có thể chứng minh
là do chính tay Phaolô viết, mặc dầu trong vài thư, Phaolô đã viết, «Chính tay tôi viết.»
Mãi đến ngày nay, các
nhà thần học kinh thánh, chuyên gia, học giả, vẫn còn nghiên cứu và tranh luận
về nguồn tài liệu, văn bản, so sánh và phân tích, nhưng vẫn chưa tuyệt đối
chính xác. Vì qua ba (3) thế kỷ đầu, nhiều nguồn dữ liệu từ nhiều nơi, được sao
chép, chỉnh sửa, thêm bớt, rải rác khắp nơi. Các nhà nghiên cứu, khoa học,
chuyên gia về khảo cổ và kinh thánh luôn luôn so sánh, phân tích và kiểm nghiệm
những điểm tương đồng hay dị biệt, từ văn phong, văn bản này qua thư kia, về
thời điểm, thời gian, địa điểm, các yếu tố lịch sử và khoa học để đưa đến những
kết luận khả thi, hợp lý, đồng thuận, trước khi khẳng định và đánh giá mọi
thông tin, tài liệu và sách liên quan đến kinh thánh. Những tài liệu, văn bản
mới tìm kiếm, khám phá được tại vùng Biển Chết (Dead Sea), được biết với tên «Dead Sea Scrolls», cũng không có thêm gì
mới về thân thế và sự nghiệp của Phaolô.
1. Hành trình đầu tiên. Acts-CVTĐ 13-14-Khởi hành bằng thuyền từ
Antioch, (Syria), ngày nay, thuộc về miền nam Thỗ Nhĩ Kỳ. Dừng lại
Cyprus-Salamis. Từ Salamis, nhóm của Phaolô tiếp tục đến đảo Paphos. Sau đó, họ
đến Pamphylia, Perga, Pisidian-Antioch, Phrygia, Lycaonia-Lystra, Derbe (Acts
14:21), Pamphylian-Attalia, và rồi, quay về lại Antioch.
2. Hành trình thứ hai- Acts-CVTĐ 16:23-20:38-Khởi hành từ Jerusalen năm 49-
sau hội nghị với các tông đồ (Council of Jerusalen)-Giải quyết những tranh luận
về việc «cắt bì», chiều hướng ơn cứu
rỗi. Kết quả đưa đến việc người lương dân có buộc phải gia nhập Do Thái Giáo
hay không để được cứu rỗi, không còn là một vấn đề. Phaolô và cộng sự lại đến
Derbe và Lystra—nơi đây, ông đón nhận thêm Timothy-Mẹ gốc Do Thái (Acts
16:3-4). Tiếp đến, họ đến thăm lại Phrygia, Galatia-Asia-Từ Galatia, nhóm của
Phaolô hướng về miền Tây, Mysia và rồi Troas-Chính nơi đây, Phaolô mơ thấy một
người đàn ông kêu mời ông đến Macedonia giúp họ. Thế là họ dùng thuyền đến
Troas, ghé ngang qua đảo Samothrace trước khi đến Neapolis (Kavala ngày nay),
từ đấy, họ hướng về Philippi. Sau khi ghé qua Amphilolis và Apollonia, họ đến
Thessalonica, Berea. Phaolô trảy xuống thủ đô Athens, trong khi Silas và Timoty
ở lại.
Phaolô đến thủ đô trước
và chờ Silas và Timothy, sau đó, Phaolô đến Corintho-Silas Timothy tiếp tục đi
đến sau. Sau một thời gian, 18 tháng, Phaolô bang biển Aegean đến Ephesus, rồi
đi Caesarea và xuôi về Jerusalem.
Phaolô cùng Silas ghé
Tarsus, nơi sinh của Phaolô, đến Tiểu Á (Asia Minor) -Derbe và Lystra. Từ
Lystra, Timothy tháp tùng Phaolô.
Sang Hy Lạp (Philippi)-
Phaolô và người cộng sự đều bị hành hung và nhốt. Tiếp tục đi đến thủ đô
Athens, giảng tại Acropolis và rồi tại đồi Mars Hill. Trong chuyến nầy, Phaolô
tuyển chọn môn đồ-trong đó có Timothy, Lydia (Philippi), và cặp vợ chồng
Aquilla và Priscilla (thợ làm và buôn bán lều- tentmakers tại Corinth)
3. Hành trình thứ ba-Acts-CVTĐ 18:23-20:38- Acts-CVTĐ không trình thuật rõ sự
chuyển tiếp từ hành trình thứ [2] sang thứ [3]. Phaolô lại khởi hành từ
Antioch-Syria đi về hướng tây, xuyên qua nhiều nơi trong miền Galatia và
Phrygia, cũng cố các giáo đoàn, môn đệ và cộng sự. Phaolô đến Ephesus và lưu
lại trong vùng Tiểu Á (Asia Minor) khoảng [2] năm, sau đó, vượt biển Aegean và
trở lại miền Macedonia-Troas, Assos và Mitylene, Miletus. Sau đó, Phaolô và
những cộng sự ghé Kos, Rhodes và Patara trước khi bang biển Địa trung Hải về
Phoenicia, và Tyre. Từ Tyre, Phaolô tiếp tục hành trình đi Ptolemais, Caesarea.
4. Hành trình cuối cùng-Không nhắc đến trong CVTĐ, nhưng trong Thư gửi cho các
giáo đoàn, (Philippians 3:7-11), học giả cho rằng, Phaolô đã tiếp tục hành
trình thứ [4], chỉ được nhắc đến trong các thư. Đan cử như trong Thư Roma
(15:24), Phaolô nhắc đến việc đi đến Tây Ban Nha (Spain)- Giáo Phụ John
Chrysostom viết, «Sau khi ông đến Roma, ông trở lại Tây Ban Nha, nhưng,
ông có đến đó nữa không trong chuyến thứ [3], chúng ta không biết.» Ngài Cyril Jerusalem,
thế kỷ thứ Tư đã viết, «Phaolô đã thiết tha rao giảng xa xôi như Tây Ban Nha»
5. Có những tài liệu, bài viết lại thêm hành trình thứ [5] của Phaolô [5] -
còn nhiều tranh cãi. Nghĩa là, khi Công vụ Tông Đồ khoá sổ, kết thúc, sứ mệnh
và công cuộc rao giảng tin mừng của Phaolô và các người môn đệ, cộng sự nào có
ngưng lại. Vì nhiều tác giả, nghiên cứu và chuyên gia về kinh thánh tân ước dõi
theo nhiều dấu tích, sự kiện, văn kiện và thông tin-trực tiếp hoặc gián tiếp,
trình thuật một hành trình khá dài, cho rằng, Phaolô đã đến Tây Ban Nha
(Spain), Anh (London-England). Không ai buộc độc giả phải tin vào những luận
cứ, suy đoán, suy diễn như vậy; tuy nhiên, chủ đề nầy giúp người đọc, những ai
còn đam mê nghiên cứu và khảo sát, tiếp tục hành trình...
Tổng cộng, Phaolô đã đi
hơn 20,000 kilomet và đã rao giảng tin mừng trên [8] nước (theo địa lý ngày
nay)-Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Lebanon, Israel, Ý, Malta, Cyprus và Tây Ban Nha.
Hầu hết các học giả tin
rằng, chính Phaolô đã viết bảy (7) thư: Galatians (viết khoảng năm 48), Romans
(năm 55-57), 1 Corinthians (năm 53-54), 2 Corinthians (năm 55- 56), Philemon
(năm 57-59/62), Philippians (năm 57-59/62) và 1 Thessalonians (năm 49-51).
Ba (3) thư: 1 Timothy; 2
Timothy; và Titus không phải ông là tác giả, nhưng lại mang tên ông. Thêm vào
đó, ba (3) thư khác: 2 Thesslonians; Ephesians; và Colossians hiện vẫn còn
nhiều tranh cãi về ai là tác giả, mặc dầu đã liệt kê vào kinh thánh tân ước.
Vài học giả còn đi sâu hơn nữa, cho rằng, có những thư Phaolô viết, với sự trợ
giúp, hợp tác với một bí thư, phụ tá, hay chuyên viên sao chép (amanuensis)-
ảnh hưởng về văn phong và có khi cả đến nội dung thần học. [4]
Nhiều học giả như
Origen, Tertullian và Hippolytus và nhiều người khác đặt vấn đề tác giả của thư
«Hebrews» Từ thế kỷ 16 về sau, khá
nhiều sự phản bác về Phaolô là tác giả của Hebrews, vì văn phong, nội dung và tư
tưởng thần học trong thư khác hẳn, không thể hiện chính Phaolô là tác giả; và
không hề thấy xuất hiện tên, hay lời chào đầu thư Phaolô thường viết, «Tôi Phaolô-I, Paul.» [4]
Những nơi mình đã đặt chân đến
Viết về Phaolô, tất
nhiên phải đam mê nghiên cứu, đọc, xem khá nhiều-nghiên cứu thật kỹ trước khi
lao mình vào viết, đặc biệt là viết về những nơi mình chưa hề đến, không có bà
con bằng hữu nào trú ngụ để hướng dẫn hoặc cho mình tá túc. Tuy nhiên, mình sẽ
không đi sâu vào những góc cạnh như: lịch sử, chính trị, văn hoá, ngôn ngữ, xã
hội, tâm lý, đạo đức, kinh tế và tôn giáo...trong thời đại của Phaolô, nơi ông
sinh ra, những nơi ông đi rao giảng hoặc bị tù đày và bị hành quyết tại Rôma.
Mình viết qua góc nhìn của một người say mến Phaolô, như chính Phaolô đã say mến đức Kitô. Viết, những gì mình am hiểu, mục kiến, tai nghe, mắt thấy, trải nghiệm, kinh nghiệm và tất nhiên, những cảm nhận riêng tư. Viết như vậy, dễ cho mình, ai viết cũng được; và viết một cách vô tư, chủ quan-tất nhiên, sẽ có nhiều điểm khiếm diện; vì mình chỉ nhận diện được trong tầm nhìn của đôi mắt phàm, trong một góc độ giới hạn, một thời gian ngắn ngủi và không gian cô đọng, rung cảm riêng tư, trong những chuyến đi-đi bộ, đi xe, đi tàu/thuyền, đi một mình, song hành và gặp gỡ với những người từ nhiều phương trời, nhưng cùng một mục đích-theo dấu chân Phaolô.
Chọn thủ đô Athens của
Hy Lạp là điểm khởi đầu có nhiều lý do thích thú và chính đáng-Phaolô đã đặt
chân lên thủ đô và mong thuyết phục được lòng tin của dân có ăn học, quan quyền
và những giới giàu sang (xem Acts-Công Vụ Tông Đồ (CVTĐ)- 17.16). Đấy là lý do
chính. Thế nhưng, lý do khác không kém phần quan trọng riêng đối với mình-ngày
xửa ngày xưa, vì theo học ban (C)-triết và văn chương, lại mê triết hơn các thứ
đam mê khác của tuổi mới lớn, nên chi, Athens là cái nôi văn minh của Âu châu,
3, 4 ngàn năm trước công nguyên. Giờ, mình không tham vọng biết thêm nhiều vào
lứa tuổi mà quỹ trí nhớ đã hao mòn hay cạn kiệt, không mong gì vun xới hoặc làm
cho phong phú thêm lên; nhưng, các tổ phụ triết học như Socrates, Plano,
Aristotle và Diogenes mãi mãi là những ngọn đuốc soi đường hành trình của cuộc
đời mình, do đó, giấc mơ được đặt chân lên những địa danh, những con đường, môi
trường sống, những nơi các triết gia tổ phụ đã hít thở khí trời, dấn thân cho
đời, mãi mãi rừng rực trong mình.
Năm 51, Phaolô một mình
đến Athens bằng thuyền và dừng lại tại làng Falio, gần Kifissos, thuở ấy là
cảng chính cho tàu bè từ khắp nơi giao thương, mua bán. Ông không bỏ phí thời
giờ nào, tiếp tục rao giảng—từ ngoài đường, phố chợ, đến các đền thờ người Do
Thái-trong khi chờ đợi Silas và Timothy đến từ Macedonia.
Acropolis-một địa danh
nổi tiếng trong lịch sử nhân loại, không ai mà không biết Acropolis khi nói về
thủ đô Athens. Nổi tiếng vì kiến trúc, đền đài, nhưng với Phaolô, không thành
công mấy trong sứ mệnh rao giảng về đức Giêsu cho những người mà ông nghĩ họ có
thể lắng nghe và tin theo. Ngược lại, chả mấy ai muốn, thích nghe ông hết.
Nhưng, Phaolô không bi quan như bao nhiêu người khác. Tuột xuống khỏi đồi
Acropolis, Phaolô tiếp tục rao giảng tại ngọn đồi bên cạnh, mang tên «Mars Hill». Hiện nay, một tấm bảng bằng
đồng, tiếng Hy Lạp, khắc ghi dấu chân Phaolô trên đồi nầy. Tại đây, mình ngồi
giửa khá đông người, có cả những cặp tình nhân, níu kéo mặt trời chiều, cho đến
khi phố xá lên đèn, rồi dần dần rực sáng như một thung lũng kim cương. Một
mình, tâm hồn thanh thản, không vướng bận chuyện trần thế, chuyện cơm gạo áo
tiền-mình mường tượng, tưởng chừng như Phaolô đang đứng gần kề, lắng nghe những
gì Phaolô đã thuyết giảng. Mường tượng chung quanh mình là những cư dân của thủ
đô Athens của 2000 năm trước đang lắng tai nghe. Mình nghe như chính Phaolô
đang nói, đang thỏ thẻ với riêng mình; chào thăm người khách lạ; chào thăm một
người ái mộ; chào thăm một người lữ hành, khởi đầu hành trình theo vết chân xưa
của Phaolô.
Mình cũng đã cuốc bộ đến
«Plato Academy Park»-viện giáo dục
của Plato gần 3000 năm trước. Đi quanh, ngồi một mình, hay trà trộn vào những
nhóm du khách, nghe lén những người hướng dẫn, giáo sư, chuyên gia nói về Plato
với những chi tiết rất thú vị. Thế là hài lòng rồi—ít ra, cũng được một lần
trong đời chính mình được ngồi vào viện, lớp học của tổ phụ Plato. Nầy, không
phải là một học viện hay lớp học như 3000 năm trước, giờ chỉ còn những móng
cùng nền-nền tảng triết học vẫn còn đó, chứ không phải móng nền của những đền
đài của thời xa xưa ấy-đã đổ nát hoang tàn hết rồi.
Gặp Louis
Tại nhà nghỉ, mình thấy một anh người Á châu, khuôn mặt đăm chiêu, ngồi đọc nơi máy vi tính, thỉnh thoảng, nhìn sang cuốn sách bên cạnh. Mình nghĩ, có lẽ anh ta là doanh nhân, đang lo công việc. Hôm khác, đánh bạo, mình hỏi, «Anh đi nghỉ mát hay công việc?» Anh đáp, «Tôi đang đi hành hương, đến các nơi Phaolô đã đến, đã rao giảng tin mừng.» Khá ngạc nhiên! Một người Hoa, lại say mê kinh thánh đến độ bỏ hết mọi sự để rong ruổi khắp nơi, theo Phaolô. Anh không chỉ đến những nơi tại Hy Lạp, nhưng ngay cả Êphesus bên Thổ Nhĩ Kỳ và Rôma.
2. Corinthos (Corinth/Corinto)
Thân xác còn ở Athens,
nhưng tâm trí đã lang thang trên miền đất Korinthos rồi.
Korinthos ngày nay khiêm
tốn hơn thời của Phaolô nhiều, chỉ còn khoảng 50 ngàn dân so với 7-800,000 dân
thuở 2000 năm trước. Phố ngày nay được biết là Korinthos mới, vì đã có Korinthos
cổ, cách đó khoảng 3.5 đến 4 cây số về hướng tây bắc. Không biết ngoài những di
tích, kiến trúc còn tồn đọng lại, bao nhiêu nhà cửa của dân cư thời ấy nay đâu,
không còn dấu vết gì. Thử nghĩ, nếu với dân số 700-800 ngàn, ắt hẳn, nhà cửa,
phố xá rất ư sầm uất, không chỉ riêng gì một chút phố cổ như hiện nay.
Nổi bật nhất mà mọi
người trên thế giới biết về cổ thành Corinto chính là những bảy (7) cột đá của
đền thờ thần Apollo còn đứng đó. Từ cổng vào, bên phải là một hồ tắm, đục từ
một tảng đá, để biết dân Corintho thuở xưa kiên nhẫn, lắm tài và nhiều kỹ năng,
chưa nói đến có thừa những huyền thoại, truyền thuyết nghe mê hồn.
Nếu không am tường thần
thoại Hy Lạp, thì có hướng dẫn viên hay không, vẫn mù tịt. Vì các thần ông,
thần bà, thần nam, thần nữ, ngay cả thần con nít, cũng có những quan hệ, móc
nối qua lại chèo chéo. Nên chi, có nghe hướng dẫn viên thao thao bất tuyệt
những chuyện ông bà thần họ thuộc lòng từ thuở còn nằm trong nôi, dân mít ta
nghe như vịt nghe sấm. Vào bên trong, nhiều gian hàng quán đã đổ nát, chỉ còn
những tảng đá chồng lên nhau, cố gắng mường tượng họ chứa được những gì, bao
nhiêu-mỗi ngăn cở một căn phòng ngủ. Phố được chia ra nhiều khu-khu đền thờ,
khu sinh hoạt, khu mua sắm... quan trọng nhất là khu «Forum»-có một nơi được xây như là một khán đài, cao khoảng hơn [1]
mét, có tên: «Bema»-có nghĩa «diễn đàn để mọi người nói» (speakers’
platform), hoặc quan chức công bố việc liên quan đến quần chúng. Tại đây, tương
truyền rằng, Phaolô đã đứng nơi nầy để rao giảng tin mừng. Và cũng chính nơi
nầy, Phaolô bị những nhóm người chống đối, lôi ông đến để cáo buộc tội tuyên
truyền về một tôn giáo mới. Vì liên quan mật thiết đến Phaolô, thời Byzantine,
đã có một thánh đường xây ngay tại Bema.
Theo dữ liệu kinh
thánh-Công Vụ Tông Đồ-Khoảng năm 51-52, Phaolô đã đến và sống tại đây 18 tháng
(CVTĐ 18; 18.11). Ông đã rao gỉang nhiều tại phố chợ, nơi tập trung của giới
trung lưu, thế quyền, giới ăn học, làm ăn, doanh nhân. Biết vậy, không một dữ
liệu, di tích gì cho biết Phaolô sống ở đâu, nơi nào, nhà ai. Chẳng hạn tại
Philippi, ông được tín hữu đầu tiên, Lydia, mời đến nhà bà. [11] Phải chăng ông
đã tá túc và cùng kiếm sống với Akylas và Priscilla, cặp vợ chồng người ông
quen thân, gốc Do Thai, và cũng làm nghề làm lều (tentmakers) như ông; họ có một
chút ít hiểu biết về đức Giêsu.
Sau 2000 năm, nhưng
những di tích lịch sử vẫn còn nằm trong lòng đất. Như hí trường (Theatre), toạ
lạc ngay bên phố cổ, chỉ cách một con đường, nhưng vẫn chưa được trùng tu, bảo
quản và cho phép du khách, chuyên gia vào thăm hoặc nghiên cứu, đừng nói chi
bao nhiêu di tích lịch sử khác. Đan cử là một quán bán hàng lưu niệm và cũng là
nhà của một nghệ nhân chuyên vẽ, tái tạo các bình, lu sành cổ, xây ngay trên
một phần của cổ thành.
Không riêng gì
Korinthos, nhưng hầu hết các thành phố cổ của Hy Lạp, nhà cửa xây ngay lên trên
những di tích cổ của 2, 3 ngàn năm trước. Khi những công trình công cộng,
metro, đường hầm, đụng vào chỗ nào cũng gặp di tích cổ.
Mình hỏi cô hướng dẫn du khách nơi
trạm «Tourist Information»- «Người
Hy Lạp nghĩ gì về quá trình lịch sử và văn minh của mấy ngàn năm trên miền đất
của tổ tiên cô?»
Cô vui cười đáp, «Những gì của 2000, 3000 năm trước, thuộc về
quá khứ, người Hy Lạp ngày nay không quan tâm về những gì mấy ngàn năm trước
đâu.»
«Thế, người Hy Lạp biết gì và nghĩ thế nào về Phaolô?» Mình hỏi.
«À, Phaolô, người nói về tình yêu chứ gì? Đằng kia, có một tấm bia đá
khắc ghi những gì ông rao giảng về tình yêu.» Thế là mình dần mò đi. Quả
vậy, đến một đền thờ chính thống giáo nhỏ, ngay trước cửa, bên trái, một tấm đá
lớn khắc ghi một đoạn của Phaolô gửi giáo đoàn Korinthos, (1 Cor. 13, 4-7)-một
bên bằng tiếng Hy Lạp và bên kia bằng tiếng Anh:
«Yêu là kiên nhẫn, tử tế; yêu không có ghen tuông hay kiêu
hãnh; không ta đây hay thô lỗ; không vui mừng về những khiếm khuyết, sai lầm,
nhưng mừng vui với sự thật. Tinh yêu gánh chịu tất cả, tin tưởng tất cả, hy
vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Tinh yêu không bao giờ tàn lụi... Thế nên, đức
tin, hy vọng và tình yêu, trong cả ba, cao vời nhất chính là tình yêu.
«Love
is patient and kind; love does not envy or boast; it is not arrogant or rude.
It does not insist on its own way; it is not irritable or resentful; it does
not rejoice at wrongdoing, but rejoice with the truth. Love bears all things,
believes all things, hopes all things, endures all things. Love never ends...
So now faith, hope, and love abide, these three; but the greatest of these is
LOVE.»
Mình nghe và đọc nhiều
về «Chúa là tình yêu-God is Love» (1 John 4:7-21); hoặc «Hãy yêu thương nhau-Love
One Another» (1 John 3:11-16), nhưng không hiểu, hay chưa am hiểu một cách cụ thể «tình yêu» ấy ra sao. Càng đọc những gì
về Phaolô, dường như, thần học của ông dần dần hiện rõ nét tinh tế. Không biết
ai có thể thêm, hoặc bớt định nghĩa về «tình
yêu» của Phaolô. Với Phaolô, tình yêu còn cao vời, vượt xa khỏi cả hy vọng
và đức tin-một thần học tuyệt vời! [12]
Đi thăm, quan sát một
ngày, chưa đủ, mình tháp tùng một bạn trẻ người Pháp, trở lại cổ thành, họ
không tính tiền vào cửa, hỏi ra thì mới biết, cuối tuần không cần phải mua vé
vào-lại một ngày say mê, xem từng viên đá, từng chữ khắc ghi trên các tảng đá
lớn nhỏ, cả những tảng đá nằm lăn lóc dưới đất. Thời ấy, có những nơi khắc,
tạc, sử dụng tiếng Latin, vài nơi lại sử dụng tiếng Hy Lạp. Bên cạnh cổ thành,
một bảo tàng viện xây năm 1932, tuy nhỏ, nhưng trưng bày khá nhiều tác phẩm
điêu khắc đẹp tuyệt vời-tính theo tỷ lệ diện tích, thì viện bảo tàng nầy có nhiều
tác phẩm điêu khắc hơn bảo tàng viện tại thủ đô Athens. Có người nói, Hy Lạp là
một viện bảo tàng văn hoá và nghệ thuật. Thì, các viện bảo tàng được xây dựng
sau nầy chỉ là một biểu tượng rất khiêm tốn. Vì hầu như, metro-xe điện ngầm nơi
nào cũng có trưng bày không biết bao nhiêu di tích cổ.
cfffTừ cổ thành, nhìn về
hướng Nam, cách khoảng hơn một cây số nhìn thẳng, là ngọn đồi Acrocorinth-575
mét cao-với đồn luỹ xây dựng bằng đá kiên cố, lớn nhất và lâu đời nhất vùng
Peloponnese. Trên đỉnh đồi còn nhiều di tích, đền Aphrodite, cả giáo đường Kitô
giáo và đền hồi giáo cổ-một di tích lịch sử không thể bỏ qua nếu đã đến
Korinthos. Ít ai có khả năng cút bộ từ cổ thành lên đến đồi Acrocorinth. Nhìn
thì thấy gần; chỉ đi bộ từ cổng, leo lên đến đỉnh đồi, dốc đá nghiên, quanh co,
rất trơn trợt, đã hụt hơi, hụt hơi thật-không phải vì trời mưa hay đá ướt,
nhưng vì hàng mấy ngàn năm, hàng triệu triệu người lên xuống, đá mòn nhẵn nhuội
như đánh bóng. Lúc xuống, vẫn phải hết sức thận trọng. Từ trên bốn góc
thành-đông-tây-nam-bắc nơi đỉnh đồi, nhìn xa ra vịnh phía bắc, hay phố
Korinthos mới về phía đông, hay nhìn xuống gần bên cạnh chân đồi-phố cổ chỉ là
một khu di tích rất nhỏ, khiêm tốn so với quá trình lịch sử tấp nập người người
của thời 2000 năm trước, lúc Phaolô đến giảng đạo-thuở ấy, nhà cửa, dân cư có
thể lan rộng vài chục cây số về hướng đông-tây, vì phía bắc là vịnh, và phía
nam là núi cao-chỉ có khoảng đất bằng phẳng kéo dài từ đông sang tây.
Qua Thư của Phaolô gửi
giáo đoàn Corintho chứng minh một quan hệ mật thiết và tình cảm Phaolô dành
riêng cho con người và miền đất nầy. Không chỉ tại Corintho, nhưng hầu hết
những nơi nào có dấu chân của Phaolô đặt đến, người dân Hy Lạp đã kiến tạo, xây
dựng nhiều giáo đường, đền thánh to lớn, nguy nga và tiếp tục duy trì sự tôn
kính gần hai ngàn năm qua. Đặc biệt là tại Corintho, tín hữu đã xây dựng một
thánh đường rất lớn để ghi ơn, ghi công, kính nhớ đến Phaolô.
Thánh lễ của cộng đồng
người Phi (từ Chicago) [photos/video]
Sau khoảng 30 phút lang
thang chụp hình từ cổng vào, thấy một người đang khoát áo «alba» trắng, dường như một linh mục đang chuẩn bị thánh lễ. Mình
tiến nhanh lại, thì ra, một nhóm người, mình đoán là người Phi. Không hề biết
trước, không bao giờ nghĩ đến; nhưng, giờ đây, một thánh lễ nơi đất thánh, tâm
hồn mình như chắp cánh. Thánh lễ ngoài trời, không mái, không vách, không trống
kèn, không ban nhạc, ca đoàn, nhưng, với những giọng ca của thế hệ 65-80 thật
sốt sắng. Bài giảng của vị chủ tế ngắn gọn, súc tích, tăng thêm ý nghĩa sâu đậm
cho những tín hữu hành hương. Thánh lễ kết thúc, một đôi nam nữ nhắc lại lời giao ước
hôn nhân [50] năm... «Anh/Em .xin sẽ giữ
lòng chung thuỷ.khi vui cũng như khi buồn, khi mạnh khoẻ cũng như lúc ốm đau,
khi giàu sang cũng như lúc cơ hàn. sẽ mãi mãi yêu thương và tôn trọng anh/em
suốt đời anh/em». Tuy mình đang làm công tác phó nhòm, nhưng sao, không cầm
được nước mắt. Còn nơi nào sánh cho bằng, từ bao nhiêu ngàn dặm, Chicago đến
Corinto, để dâng thánh lễ, nhắc lại giao ước khi hai người còn trong tuổi thanh
xuân-nơi được Phaolô nhắn gửi, lý giải về ý nghĩa và giá trị của tình yêu.
Thánh lễ kết thúc, linh mục chụp hình chung với mình và một tín hữu đến từ
Brasil, trao đổi thông tin và giữ liên lạc.
Trong khi thánh lễ của
nhóm người Phi đang diễn tiến, mình nghe xa xa phía sau lại có tiếng hát, quay
lại nhìn, thì ra, một thánh lễ khác của một cộng đồng người Âu châu. Khi mình
đến, thánh lễ gần xong. Mọi người lấy làm lạ thấy một người Á châu tham dự. Kết
thúc thánh lễ, linh mục chủ tế hỏi thăm mình-ngài ngạc nhiên khi biết về gốc
gác, lai lịch của mình. Ngoài linh mục ra không ai biết tiếng Anh, ngài dịch
lại, họ từ một cộng đoàn nhỏ tại Ý. Ai nấy đều lấy làm vui, gặp một người tín
hữu da vàng tại nơi đất thánh.
Thánh lễ của cồng đồng
người Ý [photos]
Thánh lễ tại nhà thờ
kính thánh Phaolô-Korinthos [photos]
Hôm nay, Chủ nhật, anh
bạn người Cuba, nhưng thông thạo [6] thứ tiếng-thạo thật chứ không phải chỉ
khoe lấy kỷ lục-đến nỗi, bà chủ nhà gọi anh ta là «Anh chàng Hy Lạp»-mời mình cùng đi lễ. Anh ta khen mãi...nhà thờ
đẹp-đẹp thật! Anh nào biết đấy chính là nhà thờ kính thánh Phaolô, mình ước muốn đến viếng
và tham dự thánh lễ. Thánh Phaolô không những được tôn làm quan thầy của nước
Hy Lạp, nhưng cách riêng, ngài cũng là quan thầy cho miền xứ Corintho; bởi vì
thánh nhân không những đã đến Corintho [3] lần, nhưng ngài còn lưu lại, sống
cùng, sống với, và sống cho Corintho-xa hơn nữa, chính Phaolô đã thiết lập giáo
hội đầu tiên (first metropolis) tại đây. Đã vậy, dân Corintho rất hãnh diện về
các «Thư» của Phaolô viết cho giáo
đoàn Corintho, đã được giáo hội trên toàn thế giới-Roma, Chính thống hay tin
lành-đều chọn làm rường cột cho thần học Kitô giáo (top text of Christian
teachings)
Nhà thờ toạ lạc tại
trung tâm thành phố, giữa một khu đất rộng rãi, khang trang, cây cối, phong
cảnh đẹp, được thiết lập nhà thờ chính toà cho cả miền (metropolitan church).
Hầu hết giáo dân tham dự là giới lớn tuổi, trên 50. Thì ra, lễ dành cho giới
trẻ vào buổi chiều. Nếu ai đã sống đạo công giáo thời trước Công Đồng II
(1963), ắt còn nhớ, từ trang phục của linh mục đến cách thiết kế bàn thờ-xây
vào bên trong cung thánh.
Giáo phái Chính Thống
còn giữ nguyên với truyền thống mười mấy thế kỷ, không hề thay đổi. Trước thánh
lễ, linh mục đi xông hương các tượng, và khá nhiều tượng trong nhà thờ, nên
chi, nhà thờ xông lên nghi ngút không những khói hương, nhưng mùi hương tràn
ngập thánh đường. Không có những đối đáp qua lại giữa chủ tế và giáo dân, nhưng
hầu hết là qua ca đoàn, toàn nam giới. Ca đoàn hát khá nhiều, theo từng nghi
thức.
Một sự khác biệt hiển nhiên
giửa giáo hội công giáo Roma và Chính Thống là nghi thức thánh lễ và truyền
phép. Cung thánh, nơi linh mục cử hành «bí
tích» thánh thể, quả thật là «bí mật».
Không một ai, giáo dân nào được xem thấy những gì linh mục cử hành. Đây là một
chủ đề cần được nghiên cứu sâu và biên khảo công phu-phân tích sự khác biệt
giửa hai giáo phái-Công giáo Roma và Chính thống. Ngay cả việc sử dụng «ảnh và tượng» cũng hoàn toàn khác nhau,
trong lý luận triết học và thần học. Phần phụng vụ thánh thể, rước lễ, Chính
thống giáo giữ nguyên truyền thống «bánh
không men» và mọi người lên cung thánh nhận bánh-khoảng 2 lóng tay- không
chỉ cho riêng mình, nhưng còn mang xuống, mang về cho những ai không tham dự
thánh lễ được.
Gặp lại Louis
Louis rời thủ đô Athens
trước mình, nghe nói đi Ý, nhưng mấy hôm sau, không hẹn nhưng lại gặp Louis tại
Corinth, tá túc cùng một nhà nghỉ. Louis không chỉ am tường về kinh thánh,
nhưng giỏi cả nấu ăn. Anh bỏ tiền đi chợ, nấu ăn, nấu ngon và mời mọi người
cùng ăn. Nơi anh, toả ra một tâm hồn người Kitô hữu chính hiệu như những gì
Phaolô đã rao giảng. Gặp gỡ Louis và học hỏi được nơi con người Kitô hữu và đam
mê của anh về kinh thánh, nhất là về Phaolô, khích lệ và lên tinh thần cho
mình. Bao năm rồi, từ khi say đắm trong việc nghiên cứu và học hỏi về «cơn người lịch sử của
đức Giêsu», về Phaolô, mình chưa may mắn được quen biết hay gặp gỡ một người Việt nào
cùng chí hướng, gần hay xa, bất luận tuổi tác hay giống tính, để chia sẻ và hàn
huyên.
Gặp cặp vợ chồng người
Pháp
Sau khi thăm viếng di
tích cổ Corinth, trong khi đang đón xe bus, gặp hai ông bà- ông trắng, bà đen.
Họ cùng đón xe về lại Corinth. Hỏi ra, biết mình là dân An Nam, ông bà xổ một
tràng tiếng tây. «Xin lỗi, tôi có học
tiếng Pháp, nhưng hơn một nửa thế kỷ, không sử dụng, tiếng tây của tôi sờn sét
hết rồi, tôi chỉ còn nhớ một vài bài hát» -mình tuôn ra ngay...
https://www.youtube.com/watch?v=qzM0g4tevoE
Paroles de Le Seigneur nous a aimés
Le Seigneur nous a aimés
comme l'on n'a jamais aimé.
Il nous guide chaque
jour comme une étoile dans la nuit.
Quand nous partageons le
pain, il nous donne son Amour:
C'est le pain de
l'amitié, le pain de Dieu.
C'est mon Corps, prenez
et mangez!
C'est mon Sang, prenez
et buvez!
Car je suis la Vie et je suis l’Amour.[*]
O Seigneur, emporte-nous
dans ton Amour!
*Xem thư của Phaolô (1
Cor 13:4-7) và của John (1John 4:8)
(Bài hát khá dài, với
nhiều phiên khúc. Ai thích hát, hoặc muốn biết trọn lời ca, bản nhạc, xin xem
phần tham khảo nơi cuối bài)
Chỉ vừa nghe vài chữ
đầu, ông bà vào đồng ca ngay. Bà lại lịch sự khen, «Tôi hiểu từng lời anh
hát.» Tạ ơn Chúa!
Thế rồi ông hỏi, «Thế anh nghĩ gì về sự hiện diện của Pháp tại
quê hương anh?» - chủ yếu là thời thuộc địa, đô hộ của Pháp. Mình đáp lại
bằng một phong cách ngoại giao, ông hài lòng.
Sau đó, ông bà hỏi tiếp,
«Anh đến thăm Corinth với mục đích gì?»
Mình đáp, «Tôi theo dấu chân Phaolô.»
Ông bà trố mắt lên, «Chúng tôi cũng thế.»
Rồi trao đổi nhau emails để giữ liên lạc. Ông bà mời mình ghé thăm gia đình khi
nào đến Pháp.
Đã đến Hy Lạp mà không
đến «Meteora» để thăm viếng các dòng
tu được xây dựng vào các thế kỷ thứ 13-16, trên các đỉnh núi đá cao vút giữa
trời, quả là một sự mất mác. Meteora-tiếng Hy Lạp có nghĩa là «trên không-in the air»-nằm ngay phía bắc
thành phố Kalabata khoảng 2 cây số-tây bắc vùng thảo nguyên Thessaly. Mình gặp
một người Ân độ, ngoài 75 tuổi, theo đạo Hindu-như bao nhiêu vạn triệu người
khác trên khắp thế giới, ông không đến thăm nơi nầy vì đức tin tôn giáo. Liên
Hiệp Quốc (UNESCO) [8A] công nhận Meteora là «di sản văn hoá thế giới», cũng không vì yếu tố tôn giáo, nhưng giá
trị văn hoá. Một ngạc nhiên khác, mình gặp lại một sinh viên người Đức, mới
tuần trước cùng trọ tại một nhà nghỉ tại Corinth; nay, cùng trọ một nhà tại
Meteora. Anh đi từ Đức đến các thành phố Hy Lạp bằng xe gắn máy (motocycle).
Các dòng tu có tên chung
bằng tiếng Anh: «Monastery», không
phải «Convent»- Chính Thống Giáo là
một quốc giáo của Hy Lạp, do đó, các dòng tu tại đây được sự bảo trợ của không
những chính quyền, nhưng nhất là giới quý tộc và những người giàu sang phú quý
thuở xưa. Hiện nay, du khách chỉ được vào thăm một phần rất nhỏ của tu viện,
lắm nơi không cho chụp hình, có chưng bày nhiều di tích về trang phục cho linh
mục, các vật dụng dùng trong các bí tích, nghi thức tôn giáo, ảnh tượng, đặc
biệt là nhiều văn bản viết tay, được bảo quản qua bao thế kỷ.
Sáu (6) tu viện đang còn
hoạt động [8B]-The Great Meteoron, Agia Trida, Agios Kiolaos và Varlaam thuộc
về nam tu sĩ; Agios Stephanos và Roussanou thuộc về nữ tu sĩ. Hiện nay, không
còn nhiều người đi tu như thời trước, do đó, tất cả các tu viện đã trở thành
những nơi du lịch, thu hút du khách trên toàn thế giới nhiều hơn là người muốn
đi tu. Nhiều tuyến du lịch chỉ trong vòng [1] ngày, khởi hành từ thủ đô Athens.
Đi du lịch như vậy, người Việt hay sử dụng từ «cỡi ngựa xem hoa», thật đúng nghĩa.
Muốn đi thăm [6] tu
viện, ít nhất, phải cần 2 hoặc 3 ngày. Vì đến thăm một nơi có những di tích
lịch sử, tôn giáo, văn hoá, thiết tưởng, cũng cần hội nhập, tiếp cận với người
địa phương, quan sát, tìm hiểu về đời sống, văn hoá, phong tục tập quán và nhất
là con người bản xứ; chưa nói những ai mê chụp hình. Muốn có hình đẹp, cần phải
cần ánh sáng tự nhiên-ánh sáng lúc bình minh lên, hoàn toàn khác hẳn với lúc
chiều tàn, tàn rất mau-nhìn thật kỹ có thể thấy được mặt trời xuống dần, xuống
nhanh sau rặng núi hướng tây. Mỗi phút, mỗi giây, ánh sáng thay đổi, giá trị và
vẽ đẹp của hình ảnh cũng thay đổi theo-không nói đến việc sử dụng khoa học kỹ
thuật photoshop.
4.
Thessaloniki (Thessolonica)
Cổ thành-buổi sáng đầu
tiên, vừa bước ra khỏi nhà nghỉ chừng hơn một trăm mét, mình nhận diện ngay di
tích thành cổ. Dõi theo bờ thành, đưa mình lên khu cao nhất thành cổ-một dãy
thành đồ sộ hiện ra, khoảng một mét bề ngang. Dọc theo thành, có một ngôi giáo
đường chính thống giáo-tôn giáo chính của Hy Lạp, chiếm 98 phần trăm dân số-nên
đâu đâu cũng chỉ thấy nhà thờ có cùng một lối kiến trúc cổ điển giống nhau. Từ
lan can của nhà thờ nhìn xuống phố, ra vịnh, ra biển, Thessalonica quả là thành
phố khá đẹp, có biển/vịnh, có phố xá nhộn nhịp, sau lưng là núi, không phải núi
đồi khô trọc, nhưng đầy cây cao, xanh tươi, nhà nhà san sát kín cả triền đồi.
Như đã nói, những thành phố lớn của Hy Lạp ngày nay, luôn bên dưới là một thành
phố cổ 2-3000 năm trước. Hiện nay vẫn còn nhiều công trình khai quật những di
tích cổ xưa chôn vùi bên dưới, lắm di tích còn hiện rõ những thành, nhất là
những cột bằng đá hoa cương (marble) cao vút.
Nơi đây, có nhiều giáo
đường chính thống cổ, xây dựng từ thời thế kỷ thứ 5, 6... tuy đã nhiều lần bị
cháy do thiên tai, động đất, hoặc do chính các cuộc xâm lăng, chiến tranh tôn
giáo-Hồi Giáo-Kitô Giáo, ngay cả thời đệ nhị thế chiến, quân fascit tiêu huỷ
gần hết các đền thờ, giáo đường và giết không biết bao nhiêu linh mục, tu sĩ
chính thống. Đa số những giáo đường, đền thờ đã và đang được trùng tu, xây dựng
lại nguyên nét cổ kính như ngày xưa. Trong một dịp khác, chúng ta sẽ tìm hiểu
thêm từ «Chính Thống Giáo-Orthodox Church».
Tại sao gọi là Chính Thống Giáo? Thế, những giáo phái Kitô giáo khác như công
giáo La Mã (Roman Catholic), tin lành (Protestants), sẽ là tà giáo hoặc nguỵ
giáo chăng?
Gặp linh mục chánh xứ
đền thánh Phaolô
Đứng bên giáo đường cổ
kính thánh Vlatadon Monastery/Church*-[9A] nhìn qua phía lưng đồi, nơi đó, giáo
đường kính thánh Phaolô [9.B] nỗi bật hẳn giữa hàng ngàn căn nhà san sát bên
nhau. Đến nơi, mặt trời đã lặn. Thấy một tu sĩ trong bộ áo dòng, mình chào
thăm, «Phải ngài là linh mục không?» Ngài đáp, «Vâng, tôi là linh mục chánh xứ» Sau khi giới thiệu về hành trình theo dấu chân
Phaolô, linh mục vui vẻ chia sẻ, «Đấy, bên kia, nhà thờ thánh Vlatadon, chính nơi ấy,
thánh Phaolô đã một lần rao giảng tin mừng.»
* https://en.wikipedia.org/wiki/Vlatades Monastery *https://inthessaloniki.com/item/monastery-of-vlatades-vlatadon-ano-poli/
Người Hy Lạp tin và tin
sâu thẳm về sứ mệnh rao giảng tin mừng của Phaolô trên quê hương, cho dân tộc
của họ-dựa theo công vụ tông đồ: «And a vision appeared to Paul in the nights: a man of
Macedonia was standing there, urging him and saying, ‘Come over to Macedonia
and help us ’. And when Paul had seen the vision, immediately we sought to go
on into Macedonia, concluding that God had called us topreach the gospel to
them» (Acts 16:9-10) Chính linh mục chánh xứ đã nhắc lại đoạn nầy một cách tự
tin và hãnh diện. Quả vậy, trong kinh thánh tân ước, không một miền xứ, đất
nước nào được Phaolô quan tâm, nghĩ đến và viết nhiều thư nhắn gửi, tâm tình và
khuyên răn-thể hiện một chiều sâu thần học Kitô giáo, phương châm sống đạo-đặc
biệt nói về tình yêu, như Hy Lạp. Một hình thức sống đạo, thói quen hay tập
quán-hầu như rất nhiều tín hữu Hy Lạp làm dấu thánh giá khi đi ngang qua giáo đường,
nhà thờ, dầu đi bộ hay đi xe.
Chuông chiều đổ vang, mình hỏi, «Thưa
cha, phải là giờ lễ không?» «Mời vào.» Linh mục đáp. Thế là thêm một thánh lễ
theo truyền thống Chính thống, trong giáo đường kính thánh Phaolô.
Đến đền thờ nơi Phaolô
đã một lần giảng đạo [9A]
Ngày đầu tiên, khi mình
vừa đến Thessaloniki, sau khi đi dần mò theo cổ thành đã ghé vào, chụp hình
ngôi nhà thờ cổ, nhưng vắng vẻ, không thấy bóng dáng người, cửa đóng khoá. Hôm
sau, khi nghe linh mục chánh xứ đền thánh Phaolô mách cho biết, mình trở lại.
Hôm nay, thứ Bảy, các cửa nhà thở toang mở, thì ra, đang chuẩn bị cho nghi thức
rửa tội cho một em bé.
Chung quanh nhà thờ, một
chiếc xe van chở toán quay phim-chụp hình, nhiều xe nhà và mọi người ăn diện
trang trọng như đi dự đám cưới. Mình vừa giương máy lên chụp hình, một linh mục
lên tiếng, «No Photo!», từ nầy mình
nghe hơi nhiều, quen thuộc. Nhưng, mình luôn sống với châm ngôn, «Won’t take no for an answer» nghĩa là, «không thể khuất phục vì việc từ chối».
Mình lại gần, ghé vào tai linh mục, «Thưa cha, tôi đang nghiên cứu về hành trình của
Phaolô, tôi cần hình ảnh cho công tác biên khảo. Hàng triệu người không đến đây
được, sứ mệnh của tôi là...» Vị linh mục làm thinh,
bỏ đi. Thế là mình lao vào chụp, quay video, không chừa một góc cạnh nào-với
châm ngôn-thừa hơn thiếu sót.
Bước vào gian khá hẹp,
khoảng hơn 2 mét nhân 2 mét, mình chụp hình mọi phía, mọi hướng, rồi quỳ sập
người xuống nơi chính thánh Phaolô đã một lần đứng rao giảng tin mừng, trán vừa
chạm đến tảng đá, người mình bổng nhiên bừng nóng lên như cơn sốt, nước mắt
trào ra, một cảm xúc như chưa bao giờ có.
Tiếp theo, nghi thức rửa
tội do ba (3) linh mục đồng cử hành và một linh mục phụ giúp. Nghi thức rất ư
dài, vừa đọc lời Chúa, vừa đọc kinh, hát, theo tuần tự. Người cha ẳm đứa bé.
Cháu được xức dầu từng nơi, từ trên đỉnh đầu, hai bên thái dương, trên trán,
môi-miệng và rồi toàn thân. Vị chủ tế nhúng em bé vào trong bồn nước ba (3)
lần, mỗi lần lại đọc kinh, hát. Sau hết, trao em bé cho người cha, với tấm khăn
lông lớn có sẵn, lau sạch dầu, và em được mặc một bộ áo mới, con người mới, sau
khi nhận được bí tích thanh tẩy, giữa sự chứng giám của cha mẹ, người đỡ đầu và
gia đình. Nghi thức rửa tội, tuy đơn sơ, nhưng kéo dài gần một tiếng đồng hồ,
với giàn đèn và nhóm chuyên gia-một (1) khiếp ảnh, và (4) điện ảnh/video ghi
lại không thiếu một tác động, cử chỉ, góc độ nào.
Phaolô đã đến
Thessalonica trong chuyến hành trình (xem Acts-CVTĐ 17)
Thành phố Kavala [10] -Xe bus từ từ đổ dốc,
đường quanh co, ngoằn ngoèo, bên phải là biển/vịnh, bên trái là rừng thông,
dưới thung lũng là phố xá, trông đẹp như bức tranh. Thời của Phaolô, Kavala có
tên «Neapoli», có nghĩa «phố mới»
Chính Phaolô đã đến đây
vào mùa đông năm 49 từ Troas-đây là lần đầu tiên Phaolô đặt chân trên lục địa
Âu châu trong sứ mệnh rao giảng tin mừng và từ đây, ông cùng Silas, Timothy và
Luke-tác giả Công Vụ Tông Đồ, cùng đi đến Philippi, khoảng 13 km về hướng
tây-bắc, một miền đất thuộc địa của đế quốc Rôma thời ấy.
Thành phố cổ Philippi
ngày nay không còn là một địa danh với dân cư đông đúc, phồn thịnh như ngày
xưa. Nơi đây chỉ là một di tích lịch sử, nằm trong làng nhỏ mang tên Filippoi.
Sau khi chụp hình và
thâu video toàn quần thể cổ thành, mình ghé vào viện bảo tàng nằm kế bên cạnh;
nhưng, không có đủ thì giờ, đành cho ưu tiên hàng đầu-leo lên đỉnh đồi, nơi đã
là một trụ sở hành chánh của vùng thời Phaolô. Không biết khởi hành từ đâu, con
đường nào. Mình hỏi nhân viên của viện bảo tàng, ông chỉ một cách miển cưỡng...”Ve
hướng đó.” Về hướng ông chỉ, không thấy một con đường nào, ngay cả con đường
mòn cũng không. Mình chỉ biết nhắm hướng để đi như một thời sống đời hướng đạo.
Tuy nhiên, thấy vậy, nhưng không phải vậy; vì dốc đồi nghiên gần 45 lăm độ, gai
nhiều, đá trơn, đá vỡ, không dễ tìm ra chỗ để đặt chân xuống-lỡ tay trượt tế là
lăn nhào xuống núi ngay, toi mạng. Mình quyết tâm. Đã đến đây, gần hết hành
trình rồi, không thể ra về nhưng không biết trên đỉnh đồi có gì, không nhìn
thấy được toàn quang cảnh của vùng Philippi-không thể được. Cố gắng hết sức,
không phải chỉ sự cố gắng như một em «Sói
Con» trong ngành hướng đạo, nhưng, gắng sức-một sống một còn, vì những giới
hạn của sức khoẻ, cơ thể. Từng bước, từng nổ lực-sau cùng, đã đến đích-Tạ ơn
Chúa!
Cũng leo lên đồi như tại
Corinto; nhưng, không có chông gai và hiểm nguy như tại Philippi. Vì thỉnh
thoảng, lại thấy xương như của chó sói, da rắn.. .làm mình rợn da gà! Nếu, bị
bất cứ một con hoag thú nào tấn công, cắn, ắt không có đường nào kêu cứu. Giữa
lưng đồi hoang, bỏ hoang mấy ngàn năm, không hề có con đường mòn lên đỉnh đồi,
ai nào nghĩ ra sẽ có người dám liều mạng một mình trèo ngang hông lên núi. Leo
lên đã khó, tìm ra lối xuống cũng không dễ, vì hoàn toàn không một dấu hiệu nào
có người lên xống đồi nầy, phải tự tìm lối xuống.
Phaolô rửa tội Lydia
[11]
Xuống đồi, chưa được một
phút xả hơi, lại phải vội vã nhanh chân đến đền thánh Lydia, nơi bà được chính
Phaolô rửa tội bên bờ suối, cách cổ thành khoảng hơn nửa cây số, và được mệnh
danh là người tín hữu Kitô giáo đầu tiên của Âu Châu. (xem Acts-CVTĐ 16, 15)
Đền thánh Lydia không lớn lắm, nhưng
ghi lại đầy đủ những dấu tích lịch sử-từ dưới sàn nhà đến vách tường và trên
trần nhà. Giửa đền thờ là một bồn dành cho nghi thức rửa tội. Công Vụ Tông Đồ
không ghi lại hoặc nhắc đến bao nhiêu người khác, ngoài Lydia, được chính thanh
Phaolô hoặc những người cộng sự, những người đứng đầu của giáo hội Philippi
thuở ấy rửa tội. Philippi là cộng đoàn đầu tiên tại Hy Lạp, nhưng không nghe
nhắc đến nhiều, mãi đến năm bảy năm sau, khi Phaolô đang bị giam cầm tại Roma,
mới có thư gửi cho giáo đoàn. Trong thư, Phaolô thể hiện như một di chúc, những
lời nhắn gửi cuối cùng với tâm tình tri ân, trối trăn, chia tay, và giã từ. «Rốt
lại, hỡi anh em, phàm điều chi chơn thật, điều chi đáng tởn, điều chi công
bình, điều chi thanh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt,
điều chi có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến. Những gì anh em đã
học, đã nhận, đã nghe và đã thấy nơi tôi—hãy thực hành những điều này, thì Đức
Chúa Trời bình an sẽ ở cùng anh em—Finally,
brothers, whatever is true, whatever is honorable, whatever is just, whatever
is pure, whatever is lovely, whatever is commendable, if there is any
excellence, if there is anything worthy of praise, think about these things.
What you have learned and received and heard and seen in me- --practice these
things, and the God of peace will be with you»
(Philippians 4:8-9)
Phaolô đã đến Philippi
trong chuyến hành trình- (xem Acts-CVTĐ 16)
Vương Cung Thánh Đường
Thánh Phaolô-Ngoại thành-[14] Thật đúng nghĩa với danh xưng, vì một công trình
kiến trúc đồ sộ, trang nghiêm và tuyệt vời, không khác gì những vương cung
thánh đường lớn tại Roma, ngoại trừ Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô-Vatican.
Nếu chỉ đi theo đoàn, tour, và chỉ nghe được những người hướng dẫn đoàn tóm
lược về những gì theo kiến thức nghề nghiệp của họ, hoặc đi hành hương những
đền đài tôn giáo nhưng không chuẩn bị, nghiên cứu trước, ắt hẳn sẽ mất mác rất
nhiều. Vì để am hiểu thật sâu từng chi tiết, kiến trúc, hình ảnh, tượng, điêu
khắc trong mọi đền đài, cần phải có rất nhiều thời gian, đi chậm, quan sát,
nhìn sự vật từ nhiều góc độ, góc cạnh khác nhau. Không chỉ thấy (see), xem
(watch) quan sát (observe), nhưng phải biết chiêm ngắm, chiêm ngưỡng-không chỉ
bằng đôi mắt, nhưng bằng sự rung cảm trong tâm hồn và trái tim say mến. Để rồi,
khi xa lìa các đền đài, giáo đường, mỗi người tự tạo cho mình một gia sản, tư
liệu, thư viện, kiến thức phong phú và tràn đầy ý nghĩa để sống, chứ không chỉ
có mặt, có hình, để cho người khác biết mình đã đến nơi nầy, nơi kia, viếng chỗ
nầy, chỗ nọ. Kinh nghiệm sống, trải nghiệm, không cho, không chia phần, không
trao tặng, hoặc thừa kế lại cho bất cứ ai. Ngay cả hai người cùng song hành,
cùng đi hành hương, cùng nhìn về một sự vật, sự kiện, nhưng, không một ai có
thể đắc thủ, cảm nhận và kinh nghiệm tương tự, đừng nói chi giống nhau.
Trước khi đến, bước vào
đền thánh, mình hoàn toàn không có một cảm giác gì về một nơi thánh, mộ thánh
và hấp lực, sức mạnh lôi cuốn mình, cho đến khi mình rời hẳn đền thánh. Ra ngồi
nơi hàng cây có ghế ngồi ngay phía trước, nhìn vào, mình cảm thấy tâm hồn đầy
ắp không biết bao nhiêu cảm xúc còn giao động, đan xen vào nhau. Phải chăng, vì
lần đầu tiên trong đời mình vô tình được tham dự thánh lễ ngay tại đền thánh
Phaolô, với [19] vị giám mục và [5] linh mục đồng tế. Cuối lễ, lại được vị giám
mục chủ tế bắt tay và hai giám mục chụp hình lưu niệm với mình. Mình không hề
biết trước, cũng không mong gì ngoài việc viếng thăm đền thánh với tính cách cá
nhân, riêng tư.
Đền thánh Phaolô-nơi ngài bị giam
và hành quyết-Tre Fontane Abbey [15]
Đền Thánh Phaolô (ngoại
thành) là nơi được bết đến là mộ của thánh Phaolô, và thành đền thánh Phaolô tại «Tre Fontane Abbey», nơi Phaolô bị giam
cầm và hành quyết, cách đền thánh Phaolô ngoại thành khoảng 2 cây số. Nơi đây vắng
vẻ, không thấy bóng dáng tín hữu hành hương, du khách hoặc những sinh hoạt nhộn
nhịp, không có bãi đậu xe lớn, không có quán lưu niệm, không nhà hàng ăn uống,
toạ lạc trong một khu thanh vắng, với dòng tu và nơi chiêm niệm về những đau
khổ, ngục tù và cái chết đau thương của Phaolô-bị chặt đầu-theo truyền thuyết
của giáo hội. Những người đến đây, không phải là để tìm xem những kiến trúc
nguy nga, tráng lệ, rực rỡ, huy hoàng, nhưng để nguyện cầu trong thinh lặng,
hướng lòng về với đức tin và siêu nhiên.
Trên đường về, tâm hồn
mình lâng lâng, như thì thầm cùng Phaolô-con nay đã được đặt chân lên những nơi
thánh nhân đã một lần sống, một lần đi qua, rao giảng, và đã một lần chết-chết
vì niềm tin mãnh liệt, chết cho người mình yêu-đức Giêsu. Con vui sướng, toại nguyện
và có thể thốt lên như Simeon ngày xưa, «Lạy Chúa, giờ đây, con
sẵn sàng ra đi, vì mắt con đã xem thấy tỏ tường, tay con đã sờ vào, chân cơn đã
chạm trên những hành trình của Phaolô-ôi, tuyệt vời thay!»
Đan viện Citô-có tượng thánh Bênađô
(Bernard) [16]
Vừa đến nơi, chuông từ
trong đan viện «Tre Fontane Abbey/Three
Fountains Abbey» -dòng Citô (Citeaux) vang lên, từng hồi, như chào đón, mời
gọi mình. Ngay trước đền thờ kính thánh Phaolô bị hành quyết, bên trái, một
tượng thánh Bênađô (Bernard) đứng giang tay như đón chào người Kitô hữu cùng
mang tên của ngài- lòng mình ấm lại, không như cái «ấm» ngoài da mùa hè của Roma. Ngạc nhiên-ngay đền thánh Phaolô, lại
có thánh Bênađô đứng đấy giang rộng đôi cách tay-như chào đón, như mời gọi, như
đón con về... Thánh Bênađô cũng thuộc dòng Citô, và người sáng lập ra nhiều
dòng nam-nữ tại Clairvaux, nên được biết là Bernard xứ Claivaux (1090-20 tháng
8, 1153-tên Latin: Bernardus Claraevallensis) [17], nơi đó, ngài là một đan viện phụ, được nhiều giáo
hoàng thời thánh chiến kính phục (năm 1100), thường tư vấn riêng. Ngày nay, dòng Citô
trông coi, quản lý khu đền thánh Phaolô.
Dòng Thánh Phaolô thành Chartres
(Sisters of Saint Paul de Chartres) [18]
Ước muốn rất lâu được
đặt chân đến nhà tổng quản, nơi có Mẹ Bề Trên Tổng Quyền đang sống, cũng là nơi
hai chị của mình một thời sống và học tại Roma, đã toại nguyện. Ý định chỉ muốn
biết toà nhà ấy thế nào, toạ lạc tại đâu, cũng hài lòng rồi. Nhưng, Mẹ Bề Trên
đón tiếp mình với hết sức yêu thương và đặc biệt. Mẹ không hề tỏ vẽ ngạc nhiên
hay ngần ngại-mặc dầu mình không gọi trước, chẳng báo trước, đừng nói chi xin
phép Mẹ để thăm dòng. Hai Chị của mình cũng không hề hay biết cậu em mình hiện
đang có mặt tại nhà tổng quản. Mình được mời ăn trưa, ngồi bên cạnh Mẹ-cùng
bàn, có hai Soeur người Việt. Sau cơm trưa, Mẹ đưa đi thăm cơ sở- từ nhà nguyện
với kiến trúc hết sức tân kỳ-từ trong ra ngoài, đến phòng tổng hội, nơi chỉ
dùng bầu bề trên tổng quyền, các điêu khắc, bích chương, đến khu trưng bày biểu
tượng của các miền, xứ, đất nước có cơ sở truyền giáo và công tác xã hội của
dòng, đặc biệt là một mô hình về lịch sử hội dòng, từ một miền quẻ nghèo bên
Pháp, do một nghệ nhân người đông Âu tặng. Một điều làm mình rất đỗi ngạc nhiên
là, Mẹ đã giao công tác cho hai Soeur Việt-gọi taxi, tháp tùng mình đến đền
thánh Phaolô, nơi ngài bị giam và hành quyết.
Phaolô đã đến Rôma trong
chuyến hành trình. (xem Acts-CVTĐ)
Hành trình mấy tháng đặt
chân lên [8] miền đất nước, tất nhiên, nhiều nơi chưa hề có dấu chân Phaolô;
nhưng, mình chỉ cô đọng những gì chia sẻ trong bài viết ngắn nầy, chú trọng vào
hầu hết những gì liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến Phaolô, ngoại trừ
Meteora. Tựu chung, đi đâu, tại Âu châu, vẫn tìm thấy dấu vết của thời đế quốc
La Mã/Roma—liên quan rất mật thiết với thời đại của Chúa Giêsu và của Phaolô.
Ngay tại một nước rất nhỏ, Luxembourg, lớn hơn Vatican, nhưng vẫn còn nhiều cổ
thành của 2000 năm trước. Cũng như tại Trier, Đức, nơi chôn nhau cắt rốn của
triết gia Karl Marx, vẫn thấy cổ thành La Mã ngay nơi phố chính.
Để viết trọn những gì
tai nghe, mắt thấy, chạm vào, cảm nhận và trải nghiệm, từ góc độ con người, văn
hoá (ngôn ngữ, phong tục truyền thống, thực phẩm, tôn giáo, đức tin, nghệ
thuật, mỹ thuật, v.v.), chưa nói đến vấn đề chính trị-tác động thế nào đến tôn
giáo, ắt phải mất vài năm và hàng ngàn trang-đấy là một công việc cần khá nhiều
thời gian. Những gì đón nhận được một cách nhưng không, dường như là một hồng
ân, một sự quan phòng và tình yêu thương của nhiều người dành riêng cho mình.
Tiền bạc không mua được,
học vấn, bằng cấp và địa vị không đánh đổi được một hành trình có một không
hai trong đời-nhớ đời. Để được một hành trình an bình và mang lại nhiều hoa quả
như ý, tất nhiên kiến thức cần phải có, khả năng thích nghi, hội nhập, thái độ
cởi mở, khéo giao tế và trên hết mọi sự, chính là ơn trên mà người ta thường
gọi là may mắn-những gì ngoài tầm tay của mình. Hành trình, ra đi, xa khỏi môi
trường mình sinh sống, tiện nghi, tất cả đều ngoài sự chủ động của mình- mình
hoàn toàn trở nên bị động. Chuẩn bị, chuẩn bị, chuẩn bị và chuẩn bị. Thêm vào
đó, lòng tự tin, nghệ thuật ứng xử, là những yếu tố ắt có và cần thiết.
Tổ phụ triết học
Socrates đã nói, «An unexamined life is not worth living» [25]. Dịch theo lối nôm
na-Kiếp sống vô nghĩa-không đáng sống. Trong quan niệm ấy, mình đã và đang tự
tạo một đời sống, một ngày sống, từng phút giây sống trọn ý nghĩa. Bằng cấp
cao, nhà cửa rộng, xe êm ái.. .không mang lại cho mình ý nghĩa sống, đừng nói
chi những phút giây hạnh phúc. Hành trang vào đời đã sẵn, mình mong dành thời
gian ngắn ngũi còn lại để không phải chinh phục thế giới, nhưng chính mình, để
khám phá những nơi, những gì mình mong muốn biết, đã đọc qua sách vở, xem qua
phim ảnh. Giờ, bằng đặt chân, chạm đến, hội nhập vào và vun xới cho mình một
kinh nghiệm sống thật, sống cùng và sống với mọi công dân hoàn vũ, chính nơi
môi trường sống của từng miền, mỗi miền, mang một sắc thái văn hoá khác biệt,
trong một cộng đồng thế giới cần sự tương tác, cảm thông, hợp tác, hoà bình và
yêu thương hơn tranh chấp và chiến tranh.
Mark Twain, một văn hào
người Mỹ đã nói, «Đi, không cần biết đi
đâu. Ra đi, bạn sẽ học hỏi được nhiều.» Quả vậy, ra đi, không bao giờ đo
lường được những gì mình gặt hái và không bao giờ đong đầy được ước mơ học hỏi,
phong phú hoá kiến thức và hành trang sống.
Thanksgiving 2022
BNĐ
Bên dưới, có kèm theo
nhiều tài liệu tham khảo và video những nơi mình đến, do những cơ sở, hội đoàn,
tổ chức, chuyên gia hoặc cá nhân nghiên cứu, biên soạn, thực hiện, đặc biệt là
video có tên: «The Basilica of St. Paul
Outside the Walls»-Catholic Faith Net (CFN)-do một nhóm linh mục, tu sĩ,
chuyên gia sử giáo hội thực hiện-trình bày một cách chuyên nghiệp, súc tích và
hấp dẫn hơn. Đây cũng là cách đi thăm viếng các đền, giáo đường, công trình
kiến trúc, di tich lịch sử, v.v.
Lưu ý-Mỗi thể loại phim
ảnh, tài liệu, sách vở, luôn mang hoặc dựa vào tính triết lý, giá trị, truyền
thống, thần học mang tính cách chủ quan, theo đường hướng của tôn giáo, giáo
hội, giáo phái, hoặc cá nhân-do đó, người xem, đọc, cũng cần có một kiến thức
rộng, thoáng và cởi mở. Không câu nệ, phân biệt, đách giá, phê bình hoặc xét
đoán, khi chính mình chưa hoặc không có một kiến thức hay kinh nghiệm vượt lên
trên, xa hơn, sâu sắc hơn những gì trong các thông tin, tài liệu hoặc phim ảnh.
I.
Công Vụ Tông Đồ-Nên đọc toàn văn bản.
1.
Đến Philippi và Lydia được rửa tội- Acts 16. 12, 15-16
2.
Đến Thessalonica- Acts 17.1
3.
Phaolô tại Athens- Acts 17. 16
4.
Phaolô tại Corinth-Acts 18; 18.11
5.
Phaolô tại Ephesus-Acts 19
6.
Phaolô bị bắt-Acts 20. 27
II.
Thư Phaolô Gửi Giáo Đoàn-Nên đọc hết các thư (đọc đi, đọc lại...)
1.
Philippi
2.
Thessalonica
3.
Corinth (1 & 2)
4.
Rôma
1.
Wenham, David «Paul-Follower of Jesus
or Founder of Christianity?», 1995, Wm. B. Eedmans-Lighting Source; NEW
STIFF WRAP edition
2.
Who is Apostle Paul?
https://en.wikipedia.org/wiki/Paul
the
Apostle
Paul the Apostle in Acts 22:3; Acts 5:34.
3.
Apostle Paul’s mission
https://www.pbs.org/wgbh/pages/frontline/shows/religion/first/missions.html
https://rts.edu/resources/the-goal-of-pauls-mission/
4.
Paul’s Epistles
https://en.wikipedia.org/wiki/Pauline
epistles#:~:text=Most%20scholars%2 0believe%20that%20PaukSecond%20Timothy%2C%20and%20TitusV
https://www.churchofiesuschrist.org/study/scriptures/bd/pauline-
epistles?lang=eng
https://www.oca.org/orthodoxy/the-orthodox-faith/doctrine-scripture/new-
testament/letters-of-saint-paul
https://crossexamined.org/paul-write-thirteen-letters-attributed/
5.
Paul’s 5th Journey
6.
Athens
https://en.wikipedia.org/wiki/Athens Culture and Religion
https: / / culturalatlas
.sbs.com.au/ greek-culture/greek-culture-religion
7.
Mars Hill
https://www.gotquestions.org/Mars-Hill.html https://en.wikipedia.org/wiki/Areopagus
sermon
8.
Corinth
https:
//en.wikipedia.org/ wiki/Corinth
9.
Meteora
https://en.wikipedia.org/wiki/Meteora
10.
Meteora-UNESCO https://whc.unesco.org/en/list/455/
11.
Monasteries in Meteora https://visitmeteora.travel/meteora-monasteries/
12.
Thessalonica
https://en.wikipedia.org/wiki/Thessaloniki
13.
St. Nicholas Orphanos Church
https:
//en.wikipedia.org/ wiki/Church_of_Saint_Nicholas_Orphanos
14.
Church of St. Paul-Church of Aghios Pavlos https://orthodox-world.org/en/i/17833/Greece/Thessaloniki/Agios- Pavlos/ Church/
Saint-Paul-Orthodox-Church
https://saloniki.guide/en/Attraction-Church
of St Paul-p2099-r189473- Thessaloniki
15.
Kavala
https://en.wikipedia.org/wiki/Kavala
16.
Philippi
https://en.wikipedia.org/wiki/Philippi
17.
Lydia
https://en.wikipedia.org/wiki/Lydia
of
Thyatira
18.
God is Love [1 John 4:7-21]
https://www.biblegateway.com/passage/?search=1%20John%204%3A7-
21&version=ESV
19.
Le Seigneur Nous a aime -Lyrics
https: /
/www.conducteurdelouange .com/chants/consulter/192
20.
Le Seigneur Nous a aime-video https://www.youtube.com/watch?v=qzM0g4tevoE
21.
Basilica of Sfvvvaint Paul (ngoại thành)
The Basilica of St. Paul
Outside the Walls Catholic Faith Net (CFN)
https://www.youtube.com/watch?v=Z8WG358bocc [video-42:15]
https://en.wikipedia.org/wiki/Basilica
of Saint
Paul Outside the Walls
Saint Peter’s Basilica and St. Paul’s Outside the Walls https://www.youtube.com/watch?v=GJdSnxeGKMY&t=1033s
22.St. Paul Church at
Tre Fontane
https://en.wikipedia.org/wiki/San
Paolo alle
Tre Fontane
23.Tre Fontane Abbey
https://en.wikipedia.org/wiki/Tre
Fontane
Abbey
24.Saint Bernard of
Clairvaux
https://en.wikipedia.org/wiki/Bernard
of
Clairvaux
25.Sisters of Saint Paul
de Chartres
https://en.wikipedia.org/wiki/Sisters
of Saint
Paul of Chartres https: / / stpaulrome.com/
26. Socrates, «An unexamined life»..
https://socratesjourney.org/socrates-and-the-unexamined-life/
https://www.the-philosophv.com/unexamined-life-worth-living-socrates
Comments
Post a Comment