Bốn giai đoạn chuyển biến
Bốn
giai đoạn chuyển biến
của thần học Công giáo
trong cách nhìn về các tôn giáo
Chương I
Ba giai đoạn đầu
trong quá trình chuyển biến
của thần học Công giáo
trong cách nhìn về các tôn giáo
I. Giai đoạn 1:
Đức Kitô chống lại các tôn giáo
A.
Ngoài Kitô giáo, mọi tôn giáo khác đều là tà đạo
Đó là thái
độ nổi bật trong lịch sử Giáo Hội suốt 19 thế kỷ qua. Thái độ này căn cứ
trên Kinh Thánh. Theo cách hiểu Kinh Thánh của Giáo Hội thời đó, bản tính
của con người đã hoàn toàn bị hư hoại vì tội lỗi, hư hoại một cách vô
phương cứu chữa. Số phận con người trở nên hoàn toàn tăm tối, bị kết án đau khổ
muôn đời. Tuy nhiên, vì lòng nhân từ vô bờ bến và quyền năng vô biên của Thiên
Chúa, loài người đã được Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, cứu chuộc
bằng giá máu của Ngài. Do đó, loài người chỉ có thể được cứu chuộc nhờ tin
vào Đức Giêsu Kitô và sống phù hợp với niềm tin ấy.
Giáo Hội
căn cứ vào những lời Kinh Thánh rất rõ ràng và dứt khoát như:
– «Ai
tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án»
(Mc 16,16) [01];
[01] «Bị kết án»
– có nghĩa trái ngược với «được cứu độ» ở vế trên – nghĩa là không được
cứu độ, bị luận phạt.
– «Không
ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí» (Ga
3,5) [02];
[02] «Sinh ra bởi
nước và Thần Khí» được Giáo Hội hiểu là chịu phép rửa tội trong Giáo Hội.
– «Tất
cả những kẻ không tin sự thật, nhưng ưa thích sự gian ác, thì sẽ bị kết án»
(2Tx 2,12);
– «Ai
tin vào Con của Người, thì không bị lên án ; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án
rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa» (Ga 3,18);
– «Tất
cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu
cầu Đấng họ không tin?» (Rm 10,13-14);
– «Vì
họ không tin mà đã bị chặt đi, còn bạn vì tin mà còn đó» (Rm 11,20);
– «Nếu
miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm
cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Có tin thật trong lòng,
mới được nên công chính ; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ» (Rm
10,9-10);
– «Hãy
tin vào Chúa Giêsu, thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ» (Cv 16,31).
– «Chính
nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ» (Ep 2,8);
– «Anh
em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức
Kitô» (1Pr 1,19);
– «Ơn cứu độ là thành quả của đức tin» (1Pr 1,9);
(= «Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ»)
Vì thế, các tôn giáo ngoài Kitô giáo không có một giá trị cứu rỗi nào
cả, cho dẫu xét về mặt nhân bản, chúng có khả năng giáo hóa con
người rất lớn. Chỉ có một vị Cứu tinh duy nhất, một mặc khải duy nhất «viên
mãn», trọn vẹn, một tôn giáo duy nhất chân thật mới có khả năng đem
lại ơn cứu độ. Mọi tôn giáo khác dù có tốt tới đâu, có dạy người ta ăn
ngay ở lành tới đâu, cũng là tà giáo. Vì các tôn giáo này không nhận biết Đức
Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa đã xuống trần cứu nhân loại. Mọi nỗ lực đi tìm
chân lý của các tôn giáo này là vô ích, vì bản tính con người đã bị hoàn
toàn hư hoại vì tội nguyên tổ nên vô phương đạt tới chân lý. Không ai có thể
biết được Thiên Chúa nếu không được chính Ngài mặc khải cho (x. 1Cr 2,11). Nỗ
lực tự mình tìm chân lý không cần tới mặc khải của Thiên Chúa chỉ nói
lên sự kiêu ngạo của con người. Vì thế, nỗ lực đó dù có ngay lành tới đâu cũng
vô ích, thậm chí là tội lỗi nữa.
B. Chỉ một mình Đức Kitô mới cứu được nhân
loại
Vả lại, trong Kinh Thánh – cuốn sách được mọi người Kitô hữu thời đó coi là
mặc khải duy nhất chân thật và không thể sai lầm được của Thiên Chúa cho
con người – có nhiều câu xác nhận rõ ràng lập trường trên như:
- «Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai
đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy» (Ga 14,6);
- «Ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ, vì dưới
gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại để họ có thể
nhờ đó mà được cứu rỗi» (Cv 4,12);
- «Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian
giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Giêsu Kitô» (1Tm
2,5);
- «Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi
đều là trộm cướp» (Ga 10,7-8); v. v…
Cứ theo tinh thần của những câu Kinh Thánh này thì không thể có ơn
cứu độ ngoài Đức Kitô; nói khác đi, không thể có ơn cứu độ ngoài Kitô giáo.
Do đó, tương quan giữa Kitô giáo và các tôn giáo khác tương tự như tương
quan giữa chân lý và sai lầm, giữa thiện và ác, giữa cứu rỗi
và hư mất, giữa Thiên Chúa và Satan. Nói chung, người Kitô hữu thời
trước tin rằng mọi tôn giáo khác đều là tội lỗi, đều là sản phẩm của ma quỉ,
bất chấp thực tế trước mắt là thế giới này đã được giáo hóa tốt đẹp phần lớn
nhờ các tôn giáo ấy. Chẳng hạn tại Việt Nam, mãi tới thế kỷ 16, Kitô giáo mới
được truyền sang, nhưng trước đó mấy chục thế kỷ, dân Việt Nam đã được giáo hóa
bởi Đạo Khổng, Đạo Phật, chứ nào có phải bởi Kitô giáo? Và sau thế kỷ 16, Kitô
giáo cũng chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong dân chúng. Người không có thiên
kiến buộc phải nhìn nhận rằng ảnh hưởng giáo hóa của Kitô giáo tại Việt Nam
không lớn bằng của Khổng giáo và Phật giáo. Ngay cả người Kitô hữu Việt Nam
cũng một phần nào chịu sự giáo hóa tốt đẹp của các tôn giáo ấy xét như di sản
được để lại từ thời cha ông. Nơi các dân tộc Á châu khác cũng vậy…
C. Những ngôn sứ giả đội lốt chiên
Các tôn giáo ấy càng tốt đẹp hoàn hảo bao nhiêu, thì càng quyến dụ người ta
bấy nhiêu, do đó, càng khiến nhân loại có nhiều người không đón nhận tôn giáo
duy nhất chân thật là Kitô giáo bấy nhiêu. Vì thế, các tôn giáo khác càng có
khả năng giáo hóa bao nhiêu thì càng cản trở cho Kitô giáo bấy nhiêu. Nếu không
có các tôn giáo ấy thì nhân loại dễ nhận biết Kitô giáo hơn biết bao! Vì thế,
tôn giáo nào càng cản trở chính đạo thì càng là tà đạo. Do đó, các tôn giáo ấy
bị hiểu là «những ngôn sứ giả đội lốt chiên mà đến, nhưng bên trong họ là
sói dữ tham mồi» (Mt 7,15), hay đó là «những kẻ mạo danh Thầy đến nói
rằng: “Chính ta là Đấng Kitô” và lừa gạt được nhiều người» (Mt 24,4).
D. Sẵn sàng truyền đạo bằng bạo lực
Khi hiểu được những suy tư của Giáo Hội thời đó, ta sẽ dễ dàng thông cảm
với thái độ coi thường các tôn giáo khác của các Kitô hữu ngày xưa, và
thái độ đôi khi mang tính cưỡng bách theo đạo của các giáo sĩ thời Trung
Cổ. Họ nghĩ thà cưỡng bách người khác vào Kitô giáo mà cứu được linh hồn của họ
và của con cháu họ còn hơn là để họ được tự do mà mất linh hồn. Việc cưỡng bách
đó mà nhìn bằng con mắt người thời nay thì thật là phi nhân bản, bất công, mang
tính cuồng tín, nhưng đối với các vị giáo sĩ thời đó lại là một việc bác ái,
là hành vi yêu thương cao cả. Chúng ta nên hiểu hành vi của họ như hành vi
của một người cha cưỡng bức đứa con của mình phải uống thuốc, thậm chí bằng bạo
lực, để cứu nó khỏi một cơn bệnh ngặt nghèo. Cũng vậy, việc các thừa sai xưa
dựa vào chế độ thực dân để truyền đạo tại Á châu – vốn bị nhiều người ngoài
Kitô giáo kết án – sẽ trở nên dễ thông cảm hơn khi hiểu được lập trường của
Giáo Hội thời đó về ơn cứu rỗi.
E. Không theo Kitô giáo thì sẽ sa hỏa ngục
Ý thức sự cần thiết của ơn cứu rỗi và khả năng cứu độ duy nhất
của Kitô giáo, nếu ở vào địa vị các giáo sĩ thời đó, chắc chắn chúng ta sẽ
không chấp nhất chuyện nhỏ đó trước sự cần thiết lớn lao này: là Thiên Chúa
phải được vinh danh và các dân tộc Á châu phải được cứu rỗi. Chúng ta sẽ
hiểu được ngay quan niệm của các Kitô hữu thời đó qua câu nói của Thánh Phanxicô Xavier. Khi người bản xứ mới theo đạo hỏi ngài về
số phận ông bà tổ tiên họ, ngài trả lời không nghĩ ngợi: «Họ sa hỏa ngục tất
cả!». Chính vì quan niệm như thế mà các vị giáo sĩ đó đã sẵn sàng hy
sinh tất cả, chịu đựng tất cả kể cả cái chết, thậm chí chết thảm thiết, chỉ
vì họ muốn cứu những dân tộc Á châu khỏi sa hỏa ngục. Một cách chủ quan, đó là
một sự hy sinh rất cao cả phát xuất từ tình yêu. Thiết tưởng chúng ta
không nên xét đoán một cách quá hẹp hòi và thiển cận đến nỗi lên án họ.
Trong Giáo Hội, suốt 19 thế kỷ trước Công Đồng Vatican II, thái độ quá
khích và có vẻ bất công này đã được biểu hiện qua câu nói nổi tiếng: «Ngoài
Giáo Hội, không có ơn cứu độ». Qua thế kỷ 20, quan niệm này đã bị
nhiều Kitô hữu ở Châu Á phản đối. Một số nhà thần học trong Giáo Hội, đặc biệt
Karl Rahner, đã thúc đẩy Giáo Hội tiến tới một thái độ nhân nhượng hơn.
II. Giai đoạn 2:
Đức Kitô ở trong các tôn giáo
Chủ trương cho rằng chỉ những người gia nhập Kitô giáo mới được cứu rỗi,
tuy căn cứ trên Kinh Thánh, nhưng lại dẫn đến những điều thật khó hiểu, khó
giải thích khi đối chiếu với thực tế của thế giới hiện tại. Thêm vào đó, cũng
có những câu Kinh Thánh khác chứng tỏ ngược lại: ngoài Kitô giáo vẫn có
thể có ơn cứu độ.
A. Tại sao Thiên Chúa lại chậm trễ cứu độ
như thế?
Thật vậy, nếu «ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ», thì
chắc chắn tỷ lệ người được cứu độ trên thế giới, tính từ khi con người xuất
hiện đến nay, sẽ rất thấp. Kitô giáo mới chỉ xuất hiện được 20 thế kỷ nay, đang
khi con người – theo các nhà cổ sinh vật học hiện đại – đã xuất hiện hàng trăm
thế kỷ rồi. Nếu phải tin vào Đức Kitô mới được cứu rỗi, thì tại sao Thiên
Chúa lại phải chờ đợi lâu như thế mới cho Đức Kitô xuống thế cứu chuộc,
thậm chí sau hầu hết các giáo chủ của các tôn giáo Đông phương? Nếu các
tôn giáo khác đều là tà giáo, thì sao Ngài không đến trước để tôn giáo của Ngài
được kịp thời rao giảng trước khi những «tà giáo» kia xuất
hiện? Nếu Ngài thực sự muốn mọi người được cứu độ, và nếu các tôn giáo khác
là tà giáo, thì sự khôn ngoan bình thường buộc Ngài phải biết tranh thủ kịp
thời để tránh cho nhiều người khỏi bị các «tà giáo» kia «quyến dụ»
mới đúng!
Chẳng hạn, tại Trung hoa, một nước hết sức rộng lớn đáng được truyền giáo
ưu tiên, Kitô giáo đã được các giáo phái Nestoriô và Manikêô truyền sang từ thế
kỷ từ cuối thế kỷ thứ 6 (đang khi Phật giáo được truyền sang từ thế
kỷ thứ 1, năm 67), và Kitô giáo cũng đã có lúc phát triển mạnh. Nhưng không
hiểu tại sao Thiên Chúa lại để cho đạo của Ngài chết yểu tại đây vì sự tàn sát
của Hồi Giáo Mông Cổ vào thế kỷ 13 (do Tamerlan và A-Phú-Hãn lãnh đạo). Và mãi
tới thế kỷ 16 mới có những nỗ lực truyền giáo của Công giáo và Tin Lành
tương đối mang tính qui mô vào Trung Hoa. Lúc đó, Khổng giáo và Phật giáo đã
trở nên rất mạnh tại Trung Hoa, dân chúng vì đã theo những tôn giáo có nền
tảng giáo thuyết vững chắc như thế, nên họ không theo Kitô giáo dễ dàng
như khi các Tông Đồ truyền đạo sang Âu châu. Lúc đó tại Âu châu chưa có
một tôn giáo nào lớn có nền tảng vững chắc như các tôn giáo Á châu cả. Như
vậy, chẳng lẽ Thiên Chúa, là chủ tể của lịch sử, lại không biết tính trước,
thấy trước điều ấy?
B. Kitô giáo vẫn còn là một thiểu số
Và suốt 20 thế kỷ truyền giáo, các giáo phái Kitô giáo mới chỉ đạt được
31% dân số thế giới (trong đó Công giáo chỉ được khoảng 17%). Hiện
nay, tỷ lệ Kitô giáo so với dân số thế giới càng ngày càng giảm, nhất là
tại Âu châu. Trong số ít ỏi những người theo Kitô giáo ấy, có được bao nhiêu
người là Kitô hữu đích thực, nghĩa là thực sự tin theo Chúa Kitô và sống
đúng tinh thần của Ngài để có thể được cứu rỗi? Trong khi đó, các tôn giáo Đông
phương như Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo đang có cơ phát triển mạnh lên, cả
tại Âu châu, nơi trước đây hầu như toàn tòng là Kitô giáo. Nếu chỉ những ai gia
nhập Giáo Hội Công giáo mới được cứu rỗi, thì tỷ lệ số người được cứu quả
rất ít.
C. Việc cứu độ của Thiên Chúa đã thất bại?
Sự kiện trên làm cho câu Kinh Thánh: «Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta,
(là) Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý» (1Tm 2,4)
trở thành khó giải thích. Nếu thực sự Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ,
thì với quyền năng của Ngài, Ngài dư sức tạo điều kiện để Kitô giáo phát triển
mạnh mẽ, cho dẫu vẫn tôn trọng tự do của con người. Thế nhưng tại sao có tới
gần 70% dân số thế giới không tin theo Ngài? Có thể có những người đã nghe về
Đức Kitô nhưng cố tình không tin Ngài, nhưng chắc chắn số người không hề nghe
nói về Ngài cũng như về Giáo Hội của Ngài, hoặc không được nghe nói một cách
đầy đủ và trung thực để có thể tin Ngài thì đông hơn gấp bội. Ngay cả trong số
những người đã nghe nói về Ngài, có nhiều người chưa cảm thấy có đủ lý do chính
đáng để từ bỏ tôn giáo của họ mà theo Ngài, dù họ rất thiện chí và rất sẵn sàng
đối với chân lý [03]. Họ không gia nhập Kitô giáo, trong rất nhiều trường
hợp, không phải chủ yếu lỗi tại họ.
[03] Điển hình là trường hợp của Mahatma Gandhi (1869-1948), một luật sư Ấn Độ – tốt nghiệp tại Anh quốc – tranh đấu thành công cho nền độc lập của Ấn Độ khỏi ách thống trị của người Anh bằng chủ trương bất bạo động. Ông rất say mê Đức Giêsu và tinh thần của Ngài, nên rất thích đọc Kinh Thánh. Có thể nói ông cũng sống theo tinh thần «Bát Phúc» của Ngài một cách rất gương mẫu. Nhưng ông không chấp nhận theo Kitô giáo, mà một trong những lý do là ông không thấy người Kitô hữu sống tốt hơn những người theo Ấn Độ giáo của ông.
Nếu Thiên Chúa muốn cứu độ cả thế giới, mà chỉ những người vào Kitô giáo
mới được cứu độ, thì sẽ có trên 70% không được cứu độ. Trước tình trạng đó,
hoặc phải kết luận rằng Thiên Chúa chưa toàn năng, hoặc phải kết luận rằng
ngoài Giáo Hội hay ngoài Kitô giáo vẫn có ơn cứu độ. Các nhà thần học hiện đại
đã chấp nhận kết luận thứ hai. Nếu Ngài để cho Kitô giáo vẫn còn ít ỏi, và để
cho các tôn giáo Á Đông phát triển mạnh tại Á châu như thế, chính vì Ngài muốn
như thế, và như thế hẳn có lợi cho mục đích cứu rỗi của Ngài hơn. Những câu
Kinh Thánh có vẻ xác định khả năng cứu độ duy nhất của Kitô giáo, cần phải hiểu
theo chiều hướng khác.
D. Kinh thánh cho biết ngoài Kitô giáo vẫn
có ơn cứu độ
Vả lại, cũng có những câu Kinh Thánh nói lên rằng: những người ngoại giáo
vẫn có thể được ơn cứu độ. Chẳng hạn như:
- «Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự
tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac, Giacob trong Nước Trời. Còn chính con cái
của Nước Trời lại bị quăng ra chốn tối tăm bên ngoài, ở đó chỉ có khóc lóc và
nghiến răng» (Mt 8,11-12);
- «Các dân ngoại không tìm cách để được nên công chính
thì lại được nên công chính» (Rm 9,30);
- «Những kẻ không tìm Ta lại gặp được
Ta, những kẻ không hỏi Ta, Ta đã xuất hiện cho chúng thấy» (Rm 10,20; Is
65,12);
- «Nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật
dạy, thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì
sao? Người không được cắt bì trong thân xác mà vẫn chu toàn Lề Luật, người ấy
sẽ lên án bạn, vì bạn có Lề Luật ghi chép hẳn hoi và bạn đã được cắt bì, mà vẫn
vi phạm Lề Luật» (Rm 2,26-27).
Trong những câu Kinh Thánh trên, những gì đúng cho Do Thái giáo thì cũng có
thể đúng cho Kitô giáo, những gì đúng cho phép cắt bì cũng có thể đúng cho phép
rửa tội, và những gì đúng cho Lề Luật Do Thái, thì lại càng đúng cho tinh thần
yêu thương của Chúa Kitô.
Thời các tông đồ, nếu Thiên Chúa không
bắt dân ngoại phải vào Do Thái giáo mới được vào Giáo Hội (x. Cv
15,7-11.28-29), thì cũng vậy, không nhất thiết Ngài sẽ bắt họ phải vào Kitô
giáo mới được vào Nước Trời.
E. Các tôn giáo khác cũng có chân lý
Nhiều nhà thần học nhận thấy nơi con người, có sự kiện tâm linh không thể
phủ nhận là sự khát khao tìm kiếm Thiên Chúa như Thực Tại Tuyệt Đối và Tối
Hậu. Những con người tìm kiếm đó một phần nào đã có cảm nhận về Thực Tại
Tối Hậu ấy, nên một cách nào đó họ cũng nhận biết Thiên Chúa [04], nhất là qua dấu vết của Ngài trong vũ trụ. Con người có thể «nhìn
thấy» Thiên Chúa qua thiên nhiên, qua các công trình của Ngài. Nhiều đoạn
văn trong Kinh Thánh nói đến sự mặc khải gián tiếp và tự nhiên ấy mà lý trí con
người có thể đạt tới được (x. Rm 1,19-20; Cv 17,27-28; 1 Cr 1,21). Do
đó, nhiều nhà thần học cho rằng các tôn giáo khác vẫn có thể được Thiên Chúa
mặc khải theo một cách thức nào đó, và vẫn có thể có ơn cứu rỗi cho
những người thiện chí quyết tâm tìm kiếm Thiên Chúa trong các truyền thống
tôn giáo khác, nhất là khi họ trung thành sống theo những truyền thống ấy.
Vì thế, Thiên Chúa có thể mặc khải cho con người qua kinh điển hay qua giáo
huấn của các tôn giáo.
[04] Chẳng hạn, trường hợp của Ramakrishna, một đạo sĩ Ấn giáo, là thầy
của Vivekananda. Vivekananda kể về Ramakrishna: «Tôi lẻn đến gần người và
hỏi người câu mà cả đời tôi thường hỏi kẻ khác: «Thưa ông, ông có tin
Thượng Đế không» - «Có», người trả lời. -
«Vậy ông có thể
chứng minh việc ấy được không? » - «Được». -
«Bằng cách nào? »,
- «Vì tôi thấy Thượng Đế như tôi thấy anh bây giờ, chỉ có điều là một
cách mãnh liệt hơn nhiều». Câu trả lời này làm tôi cảm phục ngay. Đây là
lần thứ nhất tôi gặp một người dám nói rằng mình đã thấy Thượng Đế, rằng tôn
giáo là một sự thực mà ta có thể cảm biết và giác xúc một cách vô cùng cường
liệt hơn là ta có thể cảm giác vạn vật» (JOHN YALE, Tôn giáo là gì? Bản
dịch của Vương gia Hớn, An Tiêm xb, SàiGòn 1970, trang 21-22). Xem thêm ANTHONY
DE MELLO (s. j. ), Contact with God, Loyola University Press,
Đoạn Tin Mừng về các nhà chiêm tinh Đông phương tìm kiếm Hài Nhi Giêsu (x.
Mt 2,1-12) cho thấy: các nhà chiêm tinh không có Kinh Thánh trong tay như các
kinh sư ở Giêrusalem để biết Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem. Nhưng họ đã đến
gặp được Hài Nhi Giêsu nằm trong máng cỏ trong khi các kinh sư Do Thái, được
mặc khải nơi sinh ra của Ngài, lại không đến và không gặp được Ngài. Các nhà
chiêm tinh có được Thiên Chúa mặc khải không? và mặc khải như thế nào? – Kinh
Thánh cho biết họ «thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông» (Mt
2,2). Đoạn Tin Mừng này cho thấy, ngoài Kinh Thánh ra, Thiên Chúa còn mặc khải
cho con người bằng những cách khác, trong đó chắc hẳn có cách thông qua các tôn
giáo đúng đắn của dân ngoại. Và con người có gặp được Thiên Chúa hay không,
không tùy thuộc vào mặc khải ấy có chính thức hay không, có rõ ràng hay không,
cho bằng vào thiện chí và sự quyết tâm của con người trong việc tìm gặp Ngài.
Công Đồng Vatican II đã làm việc rất nhiều để xây dựng một lập trường thần
học mới đúng đắn, khách quan, ít thiên kiến hơn lập trường cũ. Công Đồng nói
rằng:
- Các tôn giáo khác cũng «thường đem lại ánh sáng của
Chân Lý, Chân Lý chiếu soi cho hết mọi người» (Vatican II, NK 2,2);
- «Vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người, và vì ơn gọi
cuối cùng của con người thực ra là duy nhất nghĩa là do Thiên Chúa, cho nên ta
phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu
nhiệm phục sinh ấy, cách nào đó thì chỉ có Chúa biết thôi» (Vatican II, MV
22,5).
Như vậy, Công Đồng xác nhận rằng Thiên Chúa có thể cứu rỗi con người bằng
nhiều cách khác nhau ngoài Kitô giáo. Nhóm từ «cách nào đó chỉ có Chúa biết
thôi» đương nhiên bao gồm cả những cách thức ngoài Kitô giáo.
F. Lập trường của các Giám mục Ấn Độ
Ấn Độ là nơi phát sinh hai truyền thống tôn giáo lớn rất minh triết: Ấn
giáo và Phật giáo. Người Kitô hữu Ấn Độ (vốn là thiểu số) có nhiều dịp để so
sánh hai truyền thống tôn giáo đó với truyền thống Kitô giáo. Và năm 1969, các
giám mục Ấn Độ đã nhận định: «Các tôn giáo khác không phải là những pháo đài
mà chúng ta phải tấn công hay phá hủy. Đó chính là những nơi Thánh Linh hằng
nương trú mà chúng ta chưa hề tới viếng thăm. Đó là những kho Lời Chúa mà chúng
ta đã không hề biết tới» [05]. Vì thế, các tôn giáo đó đã là
«Kitô giáo» theo một nghĩa nào đó.
[05] D. S. AMALORPAVADASS,
bài «Các truyền thống tôn giáo, phát triển và giải phóng» trong Théologies
du Tiers Monde (Các Thần học của Thế giới Thứ Ba), Paris, L’Harmattan,1977,
trang 213.
Nhiều Kitô hữu có thói quen dựa vào đức tin của mình để tiên thiên đánh giá
thấp hay phủ nhận giá trị của các tôn giáo khác. Họ không thèm tìm hiểu đến nơi
đến chốn để biết các tôn giáo khác có giá trị tới đâu, có những điểm tích cực
hay những mặt mạnh nào. Nếu các tín đồ tôn giáo khác cũng có một thái độ tương
tự như vậy đối với Kitô giáo thì chẳng bao giờ các tín đồ trong các tôn giáo có
thể hiểu nhau một cách chính xác, gặp gỡ nhau một cách đầy cảm thông và đối
thoại với nhau đúng đắn được.
G. Quan niệm của các thần học gia Á châu
Á châu là một cái nôi phát sinh ra tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới,
kể cả Kitô giáo. Vì thế, các Kitô hữu Á châu luôn luôn phải đối diện với hiện
trạng đa tôn giáo nơi đồng bào dân tộc mình. Do đó, suy tư về các tôn giáo
là nét suy tư chính của thần học Á châu. Có thể nói: thần học Á châu chủ yếu
là thần học về các tôn giáo. Công Đồng Vatican II đã mở lối suy tư cho thần
học Á châu về vấn đề các tôn giáo. Vì thế, năm 1971, các nhà thần học Á châu đã
hội thảo tại Nagpur (Ấn Độ) với bản đúc kết như sau:
«Chúng ta đã thấy Đức Kitô và ân sủng của Ngài hoạt động trong các tôn
giáo. Dưới nhiều hình thức khác nhau, mầu nhiệm khôn tả ấy đang hoạt động trong
mọi dân tộc trên thế giới để đem lại cho kiếp sống và những khát vọng của con
người một ý nghĩa tối hậu. Người ta gọi mầu nhiệm này bằng nhiều tên khác
nhau, nhưng không tên nào có thể diễn tả chính xác được mầu nhiệm đó. Mầu
nhiệm đó đã được mặc khải và ban truyền nơi Đức Giêsu Nazarét một cách dứt
khoát.
«Vì có sự an bài phổ quát hướng dẫn mọi người đến cứu cánh của họ, và vì
con người không thể đạt tới ơn cứu độ bằng sức riêng của mình nếu không được Thiên
Chúa can thiệp giúp đỡ, nên Thiên Chúa thông ban bản thân mình không phải
chỉ cho truyền thống Do Thái giáo, mà còn cho toàn thể nhân loại bằng nhiều
cách khác nhau, với nhiều mức độ khác nhau, ngay trong nhiệm cục cứu độ duy
nhất của Thiên Chúa. Vì những người được cứu độ sẽ nhận được ơn cứu độ (qua
ân sủng mà Thiên Chúa ban cho) ngay trong truyền thống tôn giáo của mình,
nên những kinh điển và nghi thức khác nhau của các truyền thống tôn giáo
trên thế giới có thể là những cách diễn tả khác nhau, trong những mức độ khác
nhau, của cùng một mặc khải thần linh, và đều dẫn đến ơn cứu độ. Điều này
không hề làm tổn hại đến tính cách duy nhất của nhiệm cục Kitô giáo; trong
nhiệm cục đó, Thiên Chúa đã nói lời cuối cùng với thế giới qua miệng Đức Kitô
và đã trao ban những phương tiện cứu rỗi mà Đức Kitô cũng là người dẫn đạo khai
tâm» [06].
[06] D. S.
AMALORPAVADASS, bài «Các truyền thống tôn giáo, phát triển và giải phóng» trong
Théologies du Tiers Monde (Các Thần học của Thế giới Thứ Ba), Paris,
L’Harmattan,1977, trang 213.
Lập trường của các nhà thần học Á châu thật rõ ràng. Các tôn giáo lớn đều
là những môi trường cứu độ của Thiên Chúa, đều tham dự vào mầu nhiệm của
Thiên Chúa, mầu nhiệm này được gọi bằng nhiều tên khác nhau, được diễn
tả bằng nhiều cách khác nhau tùy theo văn hóa của từng dân tộc.
Vì thế, mọi người, khi sống đúng và nhờ sống đúng tinh thần của truyền thống
tôn giáo mình, đều có khả năng được Đức Giêsu Kitô cứu độ. Và ân sủng của Đức
Kitô cũng như Thánh Thần của Ngài vẫn luôn luôn hoạt động trong các tôn
giáo để thánh hóa và đem ơn cứu độ đến cho nhân loại.
III. Giai đoạn 3:
Đức Kitô ở trên các tôn giáo
A. Các tôn giáo đều tốt, nhưng chỉ có Kitô
giáo là chuẩn mực
Đây là giai đoạn ý thức lại một cách
sâu sắc sự mới mẻ của Kitô giáo, nhưng lại không muốn rút lại những cảm nghĩ
tốt về các tôn giáo khác. Đồng ý là các tôn giáo khác cũng có Thánh Linh hoạt
động, cũng xuất phát từ Thiên Chúa, cũng có khả năng cứu độ nhân loại. Nhưng
cần ý thức rằng nếu các tôn giáo ấy có những đặc tính và khả năng như
thế, thì là nhờ Đức Kitô. Các tôn giáo khác chỉ là những viên đá lót đường,
là những bậc thang dẫn đến đỉnh cao là Đức Kitô. Do đó, Kitô giáo, tôn giáo do
Đức Kitô lập ra, phải là tôn giáo chính thống, đúng nhất, nhiều chân lý nhất,
bảo đảm nhất. Các tôn giáo khác dù có hay, có tốt đến đâu cũng đều thua
kém Kitô giáo, và phải hướng về Kitô giáo như là đỉnh cao của mình.
Các tôn giáo khác đều tốt, đều đúng, nhưng chỉ có Kitô giáo mới là chuẩn
mực của chân lý.
B. Tính khách quan của Kitô giáo
Các tôn giáo khác là những nỗ lực của con người tìm kiếm chân lý, là những
nỗ lực hướng về mầu nhiệm Thiên Chúa, cũng được Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn.
Những tôn giáo đó có thể chỉ là những gì cảm nhận được một cách vô hình trong
những kinh nghiệm tâm linh. Nhưng Kitô giáo không phải chỉ là những cảm nghiệm
đó, nó còn có tính khách quan về mặt lịch sử và xã hội nữa.
Thật vậy, Đức Kitô đã đến thế gian và đã can thiệp mạnh mẽ vào lịch sử nhân
loại. Nhiều sử gia Kitô giáo cũng như ngoài Kitô giáo đã công nhận «sự kiện
Giêsu» là sự kiện lịch sử. Và hiện nay, Đức Kitô đã trở thành tâm điểm của
lịch sử nhân loại. Đức Giêsu đã trở thành điểm mốc của thời gian, chia thời
gian của nhân loại thành hai kỷ nguyên: trước và sau Đức Giêsu. Chính Ngài đã
tự xưng mình là «Con Thiên Chúa» (Mt 26,63-64; 16,15-17) và đã chấp
nhận chết cách thảm thương để làm chứng điều đó. Ngài bị dân Ngài
giết chính vì Ngài tự xưng mình như thế, cho dẫu Ngài biết xưng mình như
thế sẽ bị giết (x. Mt 26,65-66). Chính Ngài cũng đã tự xưng mình «là Đường,
là Sự Thật và là Sự Sống» (Ga 14,6). Không có vị giáo chủ nào khẳng định về
mình như thế. Ngài tuyên bố rõ ràng: Không ai đến được với Thiên Chúa Cha mà
không qua Ngài (x. Ga 14,6b); Ngài là Con Một của Thiên Chúa Cha (x.
Ga 1,14).
C. Đức Kitô khác với các vị giáo chủ khác
Như thế, Đức Giêsu Kitô là vị giáo chủ duy nhất tự xưng mình là Con
Thiên Chúa, tự đồng hóa mình với chính Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa. Các vị
giáo chủ khác có thể là những vị thánh, thậm chí có thể là đại thánh. Nhưng dù
các ngài có vĩ đại đến đâu đi nữa, thì các ngài vẫn là con người, là loài thụ
tạo. Còn Đức Giêsu Kitô, Ngài không thuộc trật tự ấy. Ngài là Con Thiên
Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, là chính Đấng Tạo Hóa. Phẩm cách của Ngài cao
vượt hẳn mọi thụ tạo khác. Nhìn nhận điều này là do đức tin.
Do đó, vấn đề phải đặt ra cho mỗi người khi biết về Ngài là: «Đức Kitô
là ai và là gì đối với tôi?». Theo một số nhà thần học, người ta
có phải là Kitô hữu hay không chỉ hệ tại câu trả lời cho câu hỏi đó. Người
nào có đức tin, nhìn nhận Ngài là Con Thiên Chúa, đồng trật tự với Thiên Chúa,
thì người đó là Kitô hữu đúng nghĩa, cho dù người đó có tội lỗi hay thấp
hèn tới đâu. Còn ai chỉ coi Ngài như một vĩ nhân, một vị đại thánh, nhưng vẫn
chỉ là một thụ tạo như bao thụ tạo khác, người đó không phải là Kitô hữu, cho
dù người đó có sống xứng đáng là người tới đâu chăng nữa. Tuy nhiên, cũng có
những nhà thần học khác [07] cho rằng
những ai sống đúng tinh thần của Đức Kitô, dù không theo Kitô
giáo, thì một cách nào đó cũng đã là Kitô hữu rồi. Ngược lại, những ai
mang danh là Kitô hữu mà không sống tinh thần Chúa Kitô thì chỉ là thứ Kitô hữu
«hữu danh vô thực» mà thôi (x. Rm 2,25-29).
[07] Chẳng hạn Karl Rahner (1904-1984) qua bài «Les
chrétiens anonymes», Écrits Théologiques (Paris, Desclée de
Brower,1963), vol. IV., pp.545-554. Xem thêm Bernard SESBO. «Karl Rahner et
les “chrtiens anonymes” », tudes,361,1984, pp.521-535.
D. Tôn giáo nào cũng có giá trị, nhưng… .
Theo lập trường này thì mỗi tôn giáo đều có một giá trị và vai trò
riêng, giúp ích cho nhân loại một cách riêng biệt, nên không cần phải biến
các tôn giáo khác thành Kitô giáo mới có thể công nhận chúng có giá trị và độc
đáo. Mỗi tôn giáo đều có vai trò và nhiệm vụ của mình trong thế giới. Tuy
nhiên, nếu không có Đức Kitô thì tất cả các tôn giáo đều chẳng cứu rỗi được
ai, cho dù những tôn giáo ấy có khả năng giáo hóa con người rất cao.
Cứu rỗi là «đến được với Thiên Chúa Cha», mà Đức Kitô nói: «Không
ai đến được với Cha mà không qua tôi» (Ga 14,6). Do đó, cần phải phân biệt
giữa khả năng giáo hóa và khả năng cứu rỗi. Cũng như đối với một tù
nhân, người có quyền ký lệnh tha khác với người «quản giáo» phụ trách
giáo hóa tù nhân ấy. Người quản giáo có dạy dỗ tù nhân giỏi tới đâu cũng không
có quyền trả tự do cho hắn. Người có quyền ký lệnh tha không hẳn đã làm công
tác giáo dục nhiều như người quản giáo. Người quản giáo có vai trò riêng
của mình, nhưng đối với tù nhân, điều quan trọng nhất là được trả tự do
chứ không phải là được giáo dục. Tuy nhiên, được giáo dục tốt là một trong
những điều kiện quan trọng để được trả tự do. Và công việc của người quản giáo
chỉ có ý nghĩa đối với tù nhân khi người tù có khả năng được trả tự do. Nhưng
rất nhiều tù nhân được tha cho dù chỉ biết có người quản giáo chứ không hề
biết gì đến người có quyền trả tự do cho mình.
Cũng vậy, chính nhờ Đức Kitô mà các tôn giáo khác mới có khả năng cứu rỗi.
Không có Đức Kitô thì không tôn giáo nào có thể tự mình cứu rỗi được ai. Nhưng
người ta vẫn có thể được cứu rỗi mà không hề nhận biết Đức Kitô là Cứu Chúa
của mình. Một thần học gia nổi tiếng chủ trương lập trường này là J. N.
Farquhar.
Năm 1909. J. N. Farquhar đã trình bày lập trường này khá rõ ràng khi coi Ấn
Độ giáo là một tôn giáo «phát sinh từ một bản năng tôn giáo đích thực với
những giá trị riêng của nó», và đặt Đức Kitô «lên trên tất cả»
như «điểm thành tựu của tôn giáo». «Như thế, lý thuyết
này đề cao tối đa nhận thức tôn giáo của con người mà vẫn bảo vệ được thế tối
thượng của Đức Kitô» [08].
[08]
Theo quan điểm này, mặc khải của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu – trung gian duy
nhất giữa Thiên Chúa và con người – là bước hoàn thành của mọi tôn giáo ngoài
Kitô giáo, là «mặc khải trọn vẹn, cuối cùng, vì thế là chuẩn mực về Thiên
Chúa cho tất cả mọi dân tộc… Mỗi tôn giáo có thể có những giá trị riêng, nhưng
tất cả những giá trị đó đều còn khiếm khuyết, chưa đầy đủ» [09].
[09] P. KNITTER, bài
của ông trong Consilium số 203,1986, trang 132.
E. Hiện trạng đa tôn giáo
cũng là ý muốn của Thiên Chúa
Một số nhà thần học cho rằng, mặc dù Kitô giáo là sự hoàn thành của các tôn
giáo, nhưng có lẽ ý muốn của Thiên Chúa trong hiện tại không phải là đưa tất
cả mọi dân tộc vào trong đại gia đình Giáo Hội. Thật vậy, nếu toàn thế giới
này đều là Kitô giáo, xét một cách khách quan, chưa hẳn thế giới đã tốt đẹp và
phong phú như tình trạng đa tôn giáo hiện nay.
Chúng ta thử tưởng tượng tình trạng của Âu châu thời Trung Cổ (thế kỷ 7 đến
15), khi Kitô giáo thống trị toàn Âu châu. Giáo Hội bị cám dỗ trở thành một
Giáo Hội chuyên chế và độc đoán. Biết bao người bị bách hại và sát hại chỉ vì
có lập trường tâm linh hay tôn giáo khác với Giáo Hội. Nhân loại đã phải than
phiền nhiều về Giáo Hội thời đại này. Thái độ đắc thắng của Giáo Hội vẫn còn
ảnh hưởng kéo dài đến ngày nay trong não trạng giáo sĩ cũng như giáo dân. Nếu
Giáo Hội thống trị toàn thế giới, tình trạng bi đát này có thể nhân lên gấp
nhiều lần.
Lịch sử Giáo Hội cho thấy khi Giáo Hội phát triển thành công về số lượng
tín hữu, thì phẩm chất của hàng giáo sĩ cũng như giáo dân bị suy giảm nhiều.
Các tín hữu không còn cảm thấy việc làm chứng cho Thiên Chúa hay Đức Kitô là
một nhu cầu cấp thiết nữa. Thật vậy, trong một đất nước có cùng một mức độ phát
triển ở nhiều mặt, cứ so sánh tinh thần Kitô hữu của các tín hữu ở những nơi
toàn tòng công giáo với những nơi tỷ lệ người Kitô hữu ít hơn, ta thấy có sự
chênh lệnh về chất lượng. Người Kitô hữu khi chỉ là một thiểu số sống giữa các
tín đồ tôn giáo khác thường ý thức việc làm chứng cho Thiên Chúa hơn. Nếu số
lượng Kitô hữu gia tăng tối đa, nhưng lại không sống đúng tinh thần Kitô hữu,
thì ích lợi gì? Đức Giêsu nói: «Không phải những ai thưa với Thầy: “Lạy
Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của
Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi» (Mt 7,21). Mang danh
Kitô hữu mà không sống tinh thần Kitô hữu thì chỉ làm «danh Thiên Chúa bị
phỉ báng» mà thôi (x. Rm 2,17-24).
Vì thế, có thể tình trạng đa nguyên tôn giáo như đã và đang có hiện nay là ý
định của Thiên Chúa trong hiện tại, còn việc quy tụ mọi tôn giáo thành một
là điều sẽ xảy ra trong ngày cánh chung. Thánh Phaolô đã tiên báo điều đó:
- «Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý
này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là khi
thời gian tới thời viên mãn, sẽ quy tụ muôn loài trong trời đất, dưới quyền một
thủ lãnh là Đức Kitô» (Ep 1,9-10).
- «Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không
vâng phục, để cuối cùng thương xót tất cả» (Rm 11,32).
Do đó, người ta buộc phải nghĩ đến khoảng cách giữa Giáo Hội trong hiện tại
và Nước Chúa trong tương lai.
F. Giáo Hội không hẳn đã là Nước Chúa
Chính Đức Kitô chứ không phải Kitô giáo hay Giáo Hội cứu chuộc nhân
loại. Giáo Hội chỉ là tình trạng bí tích của Nước Chúa chứ không phải
chính là Nước Chúa: Giáo Hội cho chúng ta thấy một trong những bộ mặt
của Nước Chúa, và Giáo Hội đã không khai thác hết cũng như không lột hết được
sự hiện diện của Nước Chúa. Giáo Hội loan báo và biểu dương cho thế giới biết
sự hiện diện phổ quát của Đức Kitô phục sinh và ảnh hưởng phổ quát của
Thánh Linh Ngài. Nhưng Giáo Hội không nên có tham vọng xác định giới hạn
sự hiện diện và ảnh hưởng đó, trái lại nên mong muốn cho giới hạn đó mở rộng
chừng nào có thể vì lợi ích và sự cứu rỗi của nhân loại.
Nước Chúa là một xã hội lý tưởng, trong đó mọi người sống vui tươi hạnh
phúc trong một trật tự xã hội tốt đẹp, thấm nhuần và tràn đầy tinh thần công
bằng và yêu thương nhau. Giáo Hội hiện nay chưa phải là một xã hội tốt đẹp như
thế, nhưng là biểu tượng của xã hội ấy. Giáo Hội đang giới thiệu cho nhân loại
xã hội lý tưởng ấy, đồng thời đang tiến tới hay trở thành xã hội ấy.
G. Giáo Hội không nên mong muốn
độc quyền ơn cứu độ
Qua các tín điều và qua cách giảng dạy, dường như Giáo Hội bị cám dỗ
muốn được độc quyền làm phương tiện cứu độ của Thiên Chúa, và không muốn
Thiên Chúa dùng những phương tiện khác. Nếu Thiên Chúa làm theo khuynh hướng
đó, chắc chắn nhân loại sẽ bị thiệt thòi rất nhiều. Giáo Hội nên cương
quyết chống lại cơn cám dỗ «mang tính hẹp hòi và bè phái» đó. Vì
tình yêu thương nhân loại đích thực đòi hỏi Giáo Hội phải mong muốn
Thiên Chúa dùng nhiều phương tiện khác nữa ngoài Giáo Hội để ơn cứu độ
trở nên phổ quát hơn. Mong muốn được độc quyền về ơn cứu độ là vô
tình mong muốn ơn cứu độ bị hyạn chế lại, một điều bất lợi cho nhân loại.
Nếu Giáo Hội chân thành yêu thương nhân loại và thực sự mong muốn nhân loại
được cứu độ, thì Giáo Hội nên tha thiết mong cầu Thiên Chúa dùng cả
những tôn giáo khác làm phương tiện cứu độ và mặc khải chân lý. Và nếu Thiên
Chúa nhận lời cầu nguyện đó thì thật là hợp lý. Chính khi Giáo Hội muốn giới
hạn hoạt động của Thiên Chúa, chỉ muốn Thiên Chúa hoạt động qua mình mà thôi,
Giáo Hội đã phản lại tình yêu, cả đối với Thiên Chúa lẫn nhân loại.
H. Chắc chắn Thiên Chúa
phải dùng nhiều phương tiện khác nhau
Nếu Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu rỗi, chắc chắn Thiên Chúa
không thể chỉ muốn dùng một phương tiện rất giới hạn và có nhiều bất toàn như
thế. Lòng yêu nhân loại của Ngài sẽ thúc đẩy Ngài phải sáng kiến ra vô số
phương tiện khác. Ngài đã sáng tạo nên vũ trụ vạn vật và con người, đã sẵn sàng
để hiện thân của Ngài là Đức Kitô chết hầu cứu tất cả mọi con người, lẽ nào
Ngài lại để cho ơn cứu độ của Ngài bị hạn chế bớt đi vì chỉ muốn ban ơn đó qua
Giáo Hội mà thôi? Nếu Ngài thực sự chỉ muốn ban ơn cứu độ qua Giáo Hội mà thôi,
điều đó có nghĩa là Ngài muốn hạn chế ơn cứu độ, muốn rằng chỉ có một số người
nào đó trong nhân loại được ơn đó mà thôi. Như thế quả thật là mâu thuẫn và
phi lý.
Thật vậy, có lẽ nào khi nhà nước muốn thông báo một điều gì rất cần thiết
cho dân chúng, cho tất cả mọi người trong nước, để tránh cho họ một nguy hiểm,
hay để cho mọi người đều được hưởng một quyền lợi căn bản, lại chủ trương chỉ
đăng thông báo đó trên một tờ báo duy nhất nào đó, tờ báo mà chỉ có 1/3 dân số
trong nước đọc mà thôi? Nếu đã muốn phổ biến thông báo đó cho tất cả mọi người,
sự khôn ngoan đòi buộc nhà nước phải dùng bất cứ phương tiện nào
mình có được để thông báo đó có thể đến với từng người trong nước: sách vở, báo
chí, truyền thanh, truyền hình, các thứ tờ bướm… Cứ xem cách các nhà nước hiện
nay phổ biến chính sách của mình cho quảng đại quần chúng (như kế hoạch hóa
sinh sản, phòng chống bệnh AIDS, phòng chống ma túy, bảo vệ trẻ em, chống bại
liệt…), ta sẽ hiểu được cách Thiên Chúa muốn phổ biến ơn cứu độ của Ngài như
thế nào cho nhân loại. Ai muốn hạn chế ơn cứu độ bằng bất cứ cách nào, người
đó đi ngược lại tình yêu thương.
Giáo Hội dẫu sao cũng chỉ là một phương tiện của Thiên Chúa, Giáo Hội không
bao giờ nên mong muốn mình trở thành phương tiện duy nhất, độc quyền của Ngài.
Việc mặc khải chân lý về Thiên Chúa cũng phải được thực hiện bằng
nhiều cách. Chân lý chỉ có một, nhưng cách phổ biến và diễn tả chân lý
thì vô số. Không nên lẫn lộn chân lý với cách thức diễn tả chân lý,
cũng như không nên lẫn lộn giữa chất nước (H2O) và các loại nước
uống (nước lã, nước lọc, nước ngọt, bia, sữa, nước trái cây… ). Người ta được
giải khát là nhờ uống nước chứ không nhất thiết cứ phải uống một loại nước nào
mới được. Giáo Hội không nên hạn chế chân lý vào trong cách thức diễn tả
chân lý của mình.
I. Thiên Chúa thì vô hạn,
nhưng mọi mặc khải về Ngài đều hữu hạn
Chắc chắn nói về Thiên Chúa vô hạn thì có nhiều điều phải nói hơn là
những điều đã nói ra trong giáo lý Kitô giáo. Cũng như nói về vũ trụ tuy
bao la nhưng hữu hạn này, thì có nhiều điều phải nói hơn là những điều đã nói
trong tất cả các sách vở chứa trong mọi thư viện trên thế giới. Tương tư như
vậy, mặc khải của Đức Kitô về Thiên Chúa được thực hiện trong 33 năm ngắn ngủi không
thể là tất cả những gì có thể nói được về Thiên Chúa. Cho rằng ngoài mặc
khải của Đức Kitô không thể có chân lý nào khác về Thiên Chúa, hay cho rằng
không một chân lý nào khác có thể có được ngoài mặc khải Kitô giáo, chẳng khác
nào cho rằng có thể chứa được toàn thể không khí trong một cái túi, để rồi kết
luận ngoài cái túi đó không còn chỗ nào khác có thể có không khí nữa.
Thiên Chúa là hữu thể phong phú vô hạn, nên những gì có thể nói về Thiên
Chúa cũng vô hạn, còn mặc khải của Đức Kitô về Thiên Chúa thì rõ ràng là hữu
hạn. Cái hữu hạn làm sao có thể lấp đầy cái vô hạn? Vì thế, vẫn phải có
chỗ đứng cho các tôn giáo khác trong việc giãi bày chân lý về Thiên Chúa. Vả
lại, cho dẫu chỉ có mình là chân lý đi nữa, Giáo Hội cũng không bao giờ nên
mong muốn rằng chỉ có mình là chân lý mà thôi. Ước mong chỉ có mình là chân
lý, và mong rằng ngoài mình ra không còn đâu có chân lý nữa, thử hỏi điều đó
xuất phát từ tình yêu thương và lòng khiêm nhượng hay từ lòng ích kỷ và sự kiêu
hãnh?
IV. Giai đoạn 4:
Đức Kitô cùng với các tôn giáo
Giai đoạn này đang được manh nha trong Giáo Hội với một số thần học gia đưa
ra một số quan điểm mới đang còn được tranh luận, chưa được Giáo Hội chính thức
nhìn nhận. Do đó, việc Giáo Hội nhìn nhận những luận điểm này có thể xảy ra
trong tương lai mà cũng có thể không. Dẫu sao những quan điểm này – cũng như
bất kỳ quan điểm thần học mới nào – cần phải được thử thách trong thời gian.
Sau khi được thử thách trong thời gian, nếu lập trường này đứng vững thì hy
vọng sẽ được Giáo Hội chính thức chấp nhận.
Chúng ta thử tìm hiểu suy tư của các nhà thần học chủ trương quan điểm này
trong chương kế tiếp (xin dành riêng một chương cho quan điểm này).
Chương II
Giai đoạn IV:
Đức Kitô
cùng với các tôn giáo
Hầu hết các nhà thần học và các Kitô hữu đều dễ dàng chấp nhận sự chuyển
biến thần học trong cách nhìn về các tôn giáo khác trong Giáo Hội đến giai đoạn
3, vì lập trường của giai đoạn này đã được Giáo Hội xác định. Nhưng những người
thường xuyên đối thoại tôn giáo và những người đã từng tìm hiểu sâu sắc các tôn
giáo khác – theo kiểu hành giả chứ không phải học giả – không thể thỏa
mãn được với lập trường đó. Họ còn muốn Giáo Hội tiến xa hơn nữa.
Những người này cho rằng: làm sao cuộc đối thoại có thể kéo dài được nếu
một trong những thành viên tham dự dám cho rằng tiếng nói của mình là chuẩn
mực và có tính cách quyết định? Đối thoại trong một bầu khí «thực dân»
như thế thì không một cuộc đối thoại nào mà không đi đến bế tắc. Những người đã
tìm hiểu sâu sắc hay đã có những cảm nghiệm tâm linh trong các tôn giáo khác khó
có thể có cùng một lập trường với những người chưa từng hiểu biết đúng và
sâu sắc những tôn giáo ấy.
Việc người Kitô hữu tự hào rằng chỉ có tôn giáo của mình là đúng nhất, là
chuẩn mực, phần lớn dựa vào một số câu Kinh Thánh nào đó, và một phần nào do
những nhận định của những nhà nghiên cứu Tây phương về các tôn giáo Đông
phương. Những kết quả nghiên cứu này thường không được chính xác, thậm chí
sai lạc nữa, khiến cho các Kitô hữu trên thế giới chưa nhận định đúng mức
giá trị của các tôn giáo ấy [10]. Điều này khiến người Kitô hữu dễ tự hào về
tôn giáo của mình, và cho rằng chỉ có mình là đúng, là hay nhất.
[10] Nhận định của
người Kitô hữu về các tôn giáo Đông Phương cũng như của các tín đồ tôn giáo
Đông Phương về Kitô giáo thường không chính xác và đúng đắn. Điều này dễ hiểu
vì người ta thường dùng lăng kính văn hóa và tôn giáo của mình để nhìn tôn giáo
khác vốn không cùng chung một nền văn hóa với mình. Chẳng hạn cuốn Entrez
dans l’Espérance (Bước vào Hy Vọng) của Đức GIOAN PHAOLÔ II có những phát
biểu về Phật giáo mà các tín đồ Phật giáo cảm thấy rõ ràng là không đúng với
tôn giáo của mình. Xem thêm đoạn văn của thiền sư Nhất Hạnh viết về các nhà
Phật Học không sống đạo Phật mà lại viết về đạo Phật ở trang 256.
Giáo Hội có thể chưa hiểu đúng về các tôn giáo
Khi nhận định và phê bình các tôn giáo
khác, chúng ta thường bị sai lầm
Những Kitô hữu nào đã từng nghe những người vô thần đả kích hay nhận xét về
tôn giáo của mình mới thấy họ đã hiểu sai tôn giáo của mình rất nhiều. Nếu dựa
trên những nhận định không chính xác ấy mà phê bình, thẩm định giá trị, thì
những phê bình và thẩm định của họ có thể rất sâu sắc, rất đúng luận lý, rất
khách quan, nhưng ta có cảm tưởng thứ tôn giáo mà họ phê bình không phải là thứ
Kitô giáo của ta. Các Kitô hữu Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm về việc này.
Cũng vậy, khi chúng ta phê bình và thẩm định giá trị các tôn giáo khác,
chúng ta cũng đi vào những sai lầm tương tự. Khi phê bình một tôn giáo mà mình
chưa hề sống và cảm nghiệm sự sống của nó, ta chỉ làm công việc «mổ xẻ một
xác chết», «một cái xác không hồn» của tôn giáo ấy. Cái xác
không hồn ấy chắc chắn không phải là cái tôn giáo đích thật mà ta muốn
phê bình.
Muốn hiểu một tôn giáo, phải thực hành tôn
giáo ấy
Thật vậy, khi tìm hiểu một tôn giáo, ta thường chỉ nhắm tìm hiểu phần giáo
lý, kinh điển. Nhưng nếu không từng sống tinh thần tôn giáo ấy, ta khó lòng
hiểu đúng lý thuyết của tôn giáo ấy. Vả lại, tôn giáo không phải chỉ có phần
giáo lý hay kinh điển. Tôn giáo chính là một cái gì sống chứ không phải cái
gì chết, mà văn tự kinh điển là cái gì chết: «Thánh Thần làm cho sống,
còn văn tự làm cho chết» (2Cr 3,6).
Thiền Tông Phật giáo cảm thấy ngôn ngữ hầu như bất lực không thể diễn tả
đúng được Chân Lý Tối Hậu của Phật giáo, cho dù là các thiền sư đã dùng chính
ngôn ngữ của Phật giáo. Như thế chẳng lẽ
ta lại chỉ căn cứ vào ngôn ngữ, văn tự của họ để phê bình cách hiểu về Chân Lý
Tối Hậu của họ? Khi người thợ chụp ảnh đã xác định rằng tấm ảnh anh ta chụp
không trung thực với vật được chụp, thì những nhận định hay phê bình về vật
được chụp dựa trên tấm ảnh đó có giá trị không? Chẳng hạn vật được chụp phát ra
một thứ ánh sáng cực mạnh, thì chẳng có máy chụp bình thường nào chụp được
chính xác cả.
Khi theo một tôn giáo, người ta chấp nhận cái lý thuyết của tôn giáo đó thì
ít, mà cảm nghiệm được sự sống của tôn giáo đó thì nhiều. Nhiều Kitô hữu
không nắm vững lý thuyết Kitô giáo của mình bằng một người vô thần cố tìm hiểu
chỉ để tìm hiểu [11], nhưng nhờ niềm tin, họ đã nhận được dồi dào sức sống và
sức mạnh tinh thần của Kitô giáo. Khi mổ xẻ một xác chết, người ta không bao
giờ thấy được sự mầu nhiệm của sức sống hay luồng sinh khí đã từng làm cho xác
thân kia hoạt động, suy tư, nói năng, làm việc, cùng với vô số khả năng của nó.
Giữa một người và xác chết của chính người ấy, có sự khác biệt nhau một trời
một vực. Cũng vậy, giữa những điều ta nghiên cứu về lý thuyết một tôn giáo và
những điều chính những người trong tôn giáo đó cảm nhận được cũng khác nhau như
thế.
[11] Tôi – người viết
tập sách này – đã từng gặp và nghe anh Dương Ngọc Dũng nói chuyện và thuyết
trình. Anh là một người nổi tiếng uyên bác về các tôn giáo với những cuốn sách
đả kích nhóm Giao Điểm bên Mỹ, nhưng dường như anh không theo một tôn giáo nào.
Tôi nhận thấy anh thông thạo về Thánh Kinh, về thần học Kitô giáo hơn tôi
nhiều. Khi cần phải trình bày ngay lập tức triết học hay thần học của thánh
Tôma hay thánh Âutinh, thì có thể anh nói khá hơn và đầy đủ hơn rất nhiều linh
mục. Về Phật giáo anh cũng uyên bác không kém. Anh nói về Duy Thức học hay quan
điểm của Trung Quán Luận một cách thao thao bất tuyệt, rất thuyết phục người nghe.
Nhưng việc cảm nghiệm được sức sống của Kitô giáo hay Phật giáo đang làm cho
các tín đồ an vui, phấn khởi và mạnh mẽ thế nào thì tôi nghĩ có thể anh không
cảm được bằng một tín đồ thuần thành tuy ít học hơn anh rất nhiều.
Thật vậy, về những nhà học Phật không sống đạo Phật, thiền
sư Nhất Hạnh viết: «… Phạm Quỳnh, Phan văn Hùm, Louis de la Vallée Poussin
chẳng hạn. Hay như Linh Mục Trần Thái Đỉnh (một tiến sĩ về Phật học) đã viết
mấy bài khảo luận về Đạo Phật, ai cũng nhận là công phu và không thiên lệch,
không chủ quan [12]. Tôi cũng thấy Linh Mục Đỉnh viết rất công phu. Nhưng
tôi lại không thấy được cái gì là Đạo Phật trong những bài ấy cả. (…).
Linh Mục Đỉnh đối chiếu, so sánh, nhận xét triết học Đạo Phật với những triết
thuyết khác một cách tỉ mỉ; bài của Linh Mục đầy dẫy những danh từ triết học và
Phật học, mà kỳ lạ, tôi vẫn không thấy trong các bài ấy không khí của nền
đạo học và triết học mà trong đó tôi đã sống, đã thở từ gần hai mươi năm nay.
Tôi có cảm tưởng Linh Mục phân tích một cái xác Phật học cứng đờ, và dù cố
gắng, cái sinh khí của Phật học vẫn không ốp đồng về nhập vào ngòi bút của Linh
Mục» [13].
[12] Những chữ tô đậm
trong đoạn này là do người viết tập sách này (mà bạn đang cầm trên tay) muốn
nhấn mạnh.
[13] NHẤT HẠNH, Đạo
Phật ngày nay, Lá Bối xb, Sàigòn 1965, trang 20-21.
Hòa thượng Thích Minh Châu, viện trưởng viện Phật học Vạn Hạnh, cũng có ý
tưởng tương tự khi nói về cuốn Amida (A-Di-Đà) của linh mục Henri de Lubac. Hòa
thượng cho rằng linh mục Lubac phê bình rất sâu sắc với những lập luận rất chặt
chẽ. Nhưng tiếc rằng đối tượng phê bình của linh mục lại không phải là thứ Phật
giáo như mà Hoà thượng hiểu.
Khi cảm nghiệm được những cái hay đẹp
trong các tôn giáo khác
Những Kitô hữu đã thực sự cảm nghiệm được cái hay cái đẹp, cái sức sống
mãnh liệt trong các tôn giáo khác, và nhất là nhờ tôn giáo đó mà cảm nghiệm
được Thực Tại Tối Hậu một cách sống động hơn, nhận được an vui và
sức mạnh nhiều hơn, khó có thể chấp nhận rằng chỉ có Kitô giáo mới đúng, mới là
chuẩn mực… Cũng như một người chưa hề ra nước ngoài hay chưa được
hiểu biết trung thực về các nước khác có thể dễ dàng tự hào hoặc chấp nhận
việc đồng bào mình tự hào rằng chỉ có nước mình là đẹp nhất, giàu nhất, tốt
nhất… Nhưng những người đã từng đi chu du khắp đó đây thì quả khó mà
chấp nhận được sự tự hào đó. Cũng vậy, khi thực sự hiểu biết các tôn
giáo khác, sự tự hào chủ quan đó tự nhiên biến mất, nhất là khi đã hiểu
thâm sâu và múc được sức sống tràn trề từ các tôn giáo ấy.
Tín đồ nào cũng tự hào về tôn giáo mình
Những người đã từng giao tiếp trao đổi về đạo pháp với những bậc cao minh
trong những tôn giáo khác đều thấy rằng những tín đồ tôn giáo khác cũng rất
tự hào về tôn giáo của họ, và sự tự hào đó không phải là không có cơ sở.
Đang khi mình thấy tôn giáo của họ không bằng tôn giáo mình, thì ngược lại,
họ lại thấy tôn giáo của họ hơn xa tôn giáo của mình. Trong khi mình thấy giáo
thuyết của họ có nhiều điều phi lý không thể chấp nhận được [14], thì ngược lại, có nhiều điều trong tôn giáo của mình bị họ cho là phi
lý, và họ không sao hiểu được tại sao mình lại có thể tin được những điều
phi lý ấy [15]. Đang khi ta thấy tôn giáo của mình là siêu việt thì họ
cũng thấy tôn giáo của họ là siêu việt, thậm chí siêu việt hơn của ta
nhiều. Ta nói tôn giáo mình siêu việt vì những lý do này, họ nói tôn giáo
của họ siêu việt vì những lý do kia. Nếu họ không thấy tôn giáo của họ siêu
việt bằng của ta, thì họ đâu còn theo tôn giáo của họ nữa. Cũng như nếu ta
không thấy tôn giáo của mình siêu việt bằng tôn giáo của họ, thì ta cũng đâu
còn theo tôn giáo mình làm gì? Có lẽ ta không nên tiên thiên cho rằng
những lý do của họ không thể vững chắc bằng của ta.
[14] Chẳng hạn, nhiều
Kitô hữu không thể chấp nhận luật luân hồi của Phật giáo, vì họ không thể chấp
nhận hiện nay mình là người mà về sau lại thành thú vật được!
[15] Chẳng hạn, họ cho
rằng không thể có một hình phạt nào là vô hạn được, vì không có một tội lỗi nào
của con người là vô hạn cả. Con người hữu hạn làm sao phạm được một tội vô hạn?
Tội hữu hạn mà lại phạt bằng một hình phạt vô hạn thì còn gì là công bằng nữa?
Vì hình phải cân xứng với tội ác thì mới hợp lý và công bằng. Do đó, họ không
thể hiểu được sự hợp lý của hình phạt vô hạn về thời gian trong Kitô giáo. Vả
lại, trong nhãn quan của họ, mọi hiện tượng đều là vô thường (=biến đổi, không
thường hằng – đây là một định luật – làm sao lại có một hình phạt thường hằng
được? Đối với họ, chịu một hình phạt vô cùng và vô hạn định như vậy thì còn khổ
hơn và khó chấp nhận hơn là bị phạt làm thú vật nữa!
Một niềm tự hào của Phật giáo
Khi giao tiếp với người Phật giáo, tôi thấy họ tự hào rằng những điều Đức
Phật nói cách đây trên 2.000 năm, có rất nhiều điều thuộc phạm vi khoa học hay
tâm lý học, mà cho tới nay, chưa thấy có điều nào bị coi là mâu thuẫn
với khoa học thời nay cả. Có nhiều điều Phật nói từ thời đó mà mãi đến thế kỷ
19 hay 20 này khoa học mới khám phá ra. Chẳng hạn như sự hiện hữu của «hằng
hà sa số chúng sinh trong ly nước» mà chúng ta thường uống, hay ngoài trái
đất mà chúng ta đang sống, còn «hằng hà sa số» những tinh tú khác. Khoa
tâm lý học của Đức Phật đã đi trước thời đại cả hai chục thế kỷ. Những
nhà phân tâm học như Jung hay Fromm cũng đã phải thán phục khoa tâm lý của Đức
Phật đã đi trước mình. Phật đã nói tới cái mà các nhà phân tâm học gọi là tiềm
thức, vô thức, tiềm thức tập thể… và giải thích rất tường tận. Khi so sánh đặc
tính đó với kinh điển của nhiều tôn giáo khác, người Phật tử rất tự hào về trí
tuệ của giáo chủ mình.
Không nên nhân danh niềm tin của mình
để phủ nhận…
Lập trường của những người chủ trương «Đức Kitô cùng với các tôn
giáo» này thường không được các Kitô hữu theo truyền thống chấp nhận, nếu
không muốn nói là bài xích. Tuy nhiên, chúng ta không nên nhân danh niềm tin
của mình để phủ nhận những lập trường nào đi ngược lại niềm tin đó, bất
chấp thực tại đang xảy ra.
Sự kiện các phán quan thời Trung Cổ kết án Galilêô và Brunô là một bài học
cho những ai thích nhân danh niềm tin vững chắc của mình để phủ nhận và kết án
những người chủ trương ngược với mình. Việc vua Tự Đức cho rằng những điều mà
Nguyễn Trường Tộ đã «mắt thấy tai nghe» ở Tây phương về kể lại là hoàn
toàn láo khoét, chỉ vì thấy chúng ngược hẳn lại quan niệm của mình, cũng
là một sự kiện giúp chúng ta có một thái độ thích hợp trong việc dung hòa giữa
niềm tin và thực tế.
Niềm tin không hẳn lúc nào cũng phù hợp với thực tế. Do đó, cần phải có một đầu óc thật khách quan để nhận
ra điều đó. Thật vậy, nếu trong quá khứ niềm tin của cha ông ta có những điều
không phù hợp với thực tế, thì chúng ta có dám chắc niềm tin của mình sẽ hoàn
toàn phù hợp với thực tế không? Nếu không dám chắc điều đó, chúng ta đừng
quá cố chấp trong niềm tin của mình. Hãy sẵn sàng chấp nhận một «mêtanoia»
về mặt tư tưởng.
Khi chưa ngã ngũ sự thật ra sao, chúng ta nên giữ vững niềm tin của
mình, vì rất có thể niềm tin vào một nhân vật đáng tin giúp ta gần với
chân lý hơn cả. Tuy nhiên, ta cũng nên suy tư khách quan chừng nào có thể. Vì
niềm tin của chúng ta có thể chưa được tinh ròng để xứng đáng gọi là
Đức Tin chân chính, nên ta đừng để niềm tin của mình làm mình mất đi
tính khách quan. Nhất là trong khi đối thoại tôn giáo, ta không nên coi
những gì mình đang tin đã là chân lý khách quan rồi, để rồi ép buộc
người khác chấp nhận như mình. Nên nhớ: Niềm tin chỉ là dự phóng về chân lý
chứ không phải là chân lý. Vì thế, đừng bao giờ đồng hóa niềm tin với chân
lý.
Chân lý bao giờ cũng giá trị hơn niềm tin, và giá trị hơn rất nhiều. Do đó,
người đích thực yêu chân lý sẵn sàng hy sinh niềm tin của mình cho
chân lý, chứ không bao giờ ngược lại. Có những người phải hy sinh niềm
tin mới đạt được chân lý. Chân lý thường đi đôi với sự khách quan hơn chủ
quan, còn niềm tin thường mang tính chủ quan hơn khách quan.
Các tôn giáo cần đến nhau
để quan niệm đầy đủ hơn về Thiên Chúa
Nếu thực sự Thiên Chúa là một thực tại vô hạn, đa diện và vô cùng phong
phú, thì chắc chắn không một tôn giáo nào có thể tự hào mình biết và cảm
nghiệm được đầy đủ mọi khía cạnh của Ngài. Tương tự như người cha trong
gia đình, mỗi đứa con có thể quan niệm cách khác nhau về người cha ấy,
và người cha cũng có thể cư xử cách khác nhau đối với từng đứa con của
mình. Vì thế, mỗi đứa con chỉ có thể hiểu được cha mình một phần nào
thôi, và thường hiểu theo cách thức người cha đối xử với mình. Nghĩa là, đứa
con ngoan có thể cho rằng cha mình rất dễ chịu, hiền lành; đứa con hư cho rằng
cha mình rất khó và nghiêm khắc. Đứa có tình cảm ướt át sẽ quan niệm về cha
mình khác với đứa khô khan tình cảm. Đứa đã lớn quan niệm khác với đứa còn nhỏ.
Muốn hiểu về cha mình cách toàn diện, những đứa con phải trao đổi những
kinh nghiệm riêng tư của mình về người cha. Quan niệm của đứa con nào dù có
đúng đắn đến đâu cũng đều phiến diện cả. Đứa con nào tự cho rằng chỉ có
quan niệm của mình về cha là đúng nhất, là chuẩn mực nhất, e rằng nó đã xâm
phạm đến sự hiểu biết và kinh nghiệm của nhưng anh em khác một cách bất công.
Quan niệm hẹp hòi của đứa con ấy xuất phát từ sự kém hiểu biết về thực tại, vì
nó cho rằng thực tại vốn chỉ có đơn thuần một mặt.
Cũng vậy, các tôn giáo cần đến nhau để vươn tới mầu nhiệm Thiên Chúa
hay Thực Tại Tối Hậu, và cần trao đổi với nhau những kinh nghiệm và bằng
chứng về Thiên Chúa hay Thực Tại Tối Hậu, là những của ăn tinh thần vẫn
hằng nuôi dưỡng đời sống tâm linh các tín đồ của mình. Vậy, để việc đối thoại
trở nên dễ dàng và đi đến kết quả tốt đẹp, mọi tôn giáo nên lấy mầu nhiệm Thiên
Chúa hay Thực Tại Tối Hậu làm trọng tâm đối thoại. Vì thế, một số nhà thần học
đang nghiên cứu những quan điểm mới: lấy Thiên Chúa – chứ không phải Đức
Kitô – làm trọng tâm đối thoại. Đa số các tôn giáo chấp nhận có
Thiên Chúa (có thể họ gọi Ngài bằng những tên khác nhau, và có những quan
niệm rất khác nhau về Ngài), và lấy Thiên Chúa làm trung tâm đời sống tôn
giáo của mình. Mỗi tôn giáo đều có những kinh nghiệm riêng về Đấng mà ta
gọi là Thiên Chúa.
II. Lập trường của cha “Raimundo
Panikkar”:
Phân
biệt giữa Đấng Kitô phổ quát
và Đức Giêsu cá biệt
Một trong
những người đại diện điển hình và xứng đáng nhất cho chủ trương này – Đức Kitô
cùng với các tôn giáo – là cha Raimundo Panikkar. Ngài là một linh mục
công giáo có cha là người Ấn và mẹ người Tây Ban Nha. Theo cha, không tôn giáo
nào có thể tham dự đối thoại nếu ngay từ đầu tôn giáo đó quả quyết rằng mình
là mẫu mực chuẩn xác cho tất cả các tôn giáo khác. Hẳn nhiên các tôn giáo
khác sẽ cho đó là một lập trường kiêu hãnh, đầy tự mãn. Lập trường «khó
chơi» này sẽ dập tắt tất cả mọi cuộc đối thoại, mọi thiện chí đối thoại. Và
nếu có lập trường dứt khoát như thế, thì trong cuộc đối thoại, chỉ có truyền
giáo chứ không có đối thoại đúng nghĩa.
Hiện nay,
thế giới đang chuyển biến đòi buộc phải giải thích lại cách hiểu cổ
truyền về tính duy nhất và phổ quát của Đấng Kitô. Vì thế, cha
Panikkar đề nghị phải phân biệt giữa Đấng Kitô phổ quát và Đức Giêsu cá
biệt.
Chỉ
có một Đấng Kitô phổ quát duy nhất
Theo cha
Panikkar, Đấng Kitô là «một biểu tượng sống động của toàn thể thực tại: con
người, thần linh và vũ trụ». Ngài là trung tâm của thực tại, là điểm kết
tinh để con người, thần linh và vật chất có thể xoay quanh đó mà phát triển. Ngài
là sự duy nhất sinh động của Thiên Chúa, con người và thế giới. Ngài là LỜI
(logos), là hiện thân Đấng Tối Hậu, là sự thông ban Đấng Tối Hậu, là
«hành vi lịch sử của Chúa Quan Phòng đang thôi thúc nhân loại qua nhiều
đường nẻo khác nhau, đưa đời sống con người tới chỗ viên mãn». Chỉ có
một Đấng Kitô duy nhất, là tư tế với chức tư tế vũ trụ, soi sáng và
thôi thúc khắp nơi, trong tất cả mọi dân tộc và mọi nền văn hóa [16].
[16] RAIMUNDO
PANIKKAR, The Unknown Christ of Induism, Orbis books,1981, p.27
Đấng
Kitô phổ quát đã trở thành Đức Giêsu cá biệt
Đấng Kitô
– Ngôi Lời – này, Đấng vĩnh cửu và phổ quát này đã nhập thể thành Đức Giêsu
Nazarét. Nhưng sự nhập thể này không phải là sự nhập thể duy nhất và
chuẩn mực. Trong những năm gần đây, cha Panikkar xác nhận rằng không có
một cái tên lịch sử nào có thể được coi là tên cuối cùng của Đấng Kitô.
Đấng này không thể được cụ thể hóa hay hiện thực hóa trong một nhân vật chỉ
có tính cách lịch sử, đến nỗi trên dương gian này ta sẽ không bao giờ
biết Đấng Kitô hoàn toàn đầy đủ cả. Và Đấng Kitô phổ quát ấy đã trở thành
cụ thể nơi Đức Giêsu, và đối với các Kitô hữu, Đức Giêsu ấy chính là hình
ảnh tối hậu của Đấng Kitô đó. Đó là điều mà mọi Kitô hữu phải cương
quyết khẳng định. Họ phải tin vững chắc rằng ơn cứu độ của mình là
do Ngài.
Đấng
Kitô còn có những danh hiệu khác
Nhưng nếu
Đức Giêsu chính là Đấng Kitô, thì điều đó không có nghĩa là Đấng Kitô chỉ là
Đức Giêsu. Trong lịch sử, nơi những nền văn hóa khác, cụ thể là trong
kinh điển của các tôn giáo khác, Đấng Kitô có thể được gọi bằng nhiều
danh hiệu khác như Rama, Krishna, Isvara, Purusha, Tathagata… Nhưng không
vì thế mà Đức Giêsu cá biệt kia không còn luôn luôn cần thiết và thích đáng
nữa.
Phải
chăng quan điểm của cha Panikkar
ngược với Kinh Thánh?
Quan điểm
của cha Panikkar tuy có thể chấp nhận được đối với những người đã từng tìm hiểu
sâu xa các tôn giáo hay những người đã từng đối thoại nhiều với các tôn giáo
khác, nhưng rất khó chấp nhận đối với các Kitô hữu có đức tin truyền thống. Vì
nhiều chỗ trong Kinh Thánh xác định sự duy nhất của Đức Giêsu. Chẳng hạn như:
- «Chỉ
có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài
người: đó là một con người, Đức Giêsu Kitô» (1Tm 2,5).
- «Dưới
gầm trời này, không một danh nào khác được ban cho nhân loại để chúng ta nhờ đó
mà được cứu độ» (Cv 4,12).
Như vậy,
nếu cứ hiểu theo nghĩa đen của Kinh Thánh thì lập trường của cha Panikkar khó
đứng vững.
Có
nên hiểu Kinh Thánh theo nghĩa đen?
Nhưng chấp
cứng vào nghĩa đen của Kinh Thánh và coi lời Kinh Thánh là tuyệt đối, bất di
bất dịch, có phải là thái độ đúng đắn nhất không? Vì: nếu hiểu theo
nghĩa đen lời Đức Kitô: «Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi,
thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi được» (Mt 5,18)
được nói trong bối cảnh Do Thái giáo, thì ắt nhiên Luật Môsê (tức Lề Luật) sẽ
còn phải được giữ mãi đến tận thế. Nhưng thực ra, chỉ sau khi Chúa Giêsu về
trời một thời gian ngắn, các Tông Đồ đã bãi bỏ Lề Luật này. Làm sao có
thể hiểu theo nghĩa đen lời Thiên Chúa hứa cho Abraham rằng con cháu ông sẽ
đông như sao trên trời, cát dưới biển? (x. St 15,5). Chính vì hiểu theo nghĩa
đen và tuyệt đối hóa lời dạy của Kinh Thánh (x. Gs 10,12-14) mà
các phán quan thời Trung Cổ đã nhất quyết cho rằng mặt trời phải quay chung
quanh trái đất, nên đã thiêu sống oan linh mục Bruno và kết án chung thân thật
bất công thầy dòng Galilêô.
Hiểu
Kinh Thánh theo nghĩa đen
có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng
Chính vì
hiểu một số câu Kinh Thánh theo nghĩa đen, mà nhiều giáo phụ, cũng như Luther,
Calvin, và rất nhiều giáo phái Tin Lành cho rằng bản tính con người đã hoàn
toàn hư hỏng, nên họ khinh rẻ phần tự nhiên trong con người, coi rẻ những
nỗ lực tự nhiên của con người đóng góp vào việc cứu chuộc, và chỉ coi trọng
những gì là siêu nhiên xuất phát từ Thiên Chúa mà thôi. Họ cho rằng mọi cố
gắng tự nhiên của con người đều vô giá trị, thậm chí còn là tội lỗi nữa,
nhất là khi dùng những cố gắng riêng của mình để tìm hiểu về Thiên Chúa, vì như
thế là kiêu ngạo. Theo họ, nếu có gì tốt đẹp trong các tôn giáo khác, thì điều
tốt đẹp ấy phải được gọi là xấu, là tội lỗi mới đúng.
Và cũng
chính vì hiểu lời Kinh Thánh theo nghĩa đen mà người Do Thái xưa quan niệm Đấng
Mêsia phải là người thuộc hoàng tộc, có vương quyền trần gian với binh hùng
tướng mạnh, và sẽ mộ binh khởi nghĩa để cứu dân Do Thái khỏi ách thống trị của
đế quốc Rôma. Từ đó họ đi đến một tai hại khủng khiếp là không thể chấp nhận
«anh Giêsu nghèo hèn kia» chính là Đấng Mêsia phải đến. Và họ đã giết
Ngài một cách thảm thương trên thập giá…
Như vậy,
hiểu Kinh Thánh theo nghĩa đen đôi khi dẫn đến những tai hại nghiêm trọng. Và
đó chính là điều mà Giáo Hội cũng như mọi Kitô hữu nên rút kinh nghiệm, để
tránh những chuyện đáng tiếc tương tự như trên có thể xảy ra.
Làm
sao giải thích… ?
Vậy, câu
Kinh Thánh của Phaolô: «Chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài
người: đó là một con người, Đức Giêsu Kitô» (1Tm 2,5) hay câu «Dưới gầm
trời này, không có một danh nào khác được ban cho nhân loại để chúng ta nhờ đó
mà được cứu độ» (Cv 4,12), phải được hiểu thế nào?
– Lập
trường của cha Panikkar không có gì trái với tinh thần những câu Kinh
Thánh này, vì cha chủ trương chỉ có một Đấng Kitô duy nhất phổ quát, không
có hai, nhưng Đấng Kitô này đã mặc lấy nhiều hình thức cá biệt khác nhau
trong suốt dòng lịch sử của nhân loại, trong những nền văn hóa khác nhau,
tại nhiều nơi khác nhau. Đức Giêsu tại Do Thái chỉ là một hình thức cá
biệt của Ngài. Trong câu Kinh Thánh Cv 4,12, chữ «danh» không
chỉ có nghĩa là một tên gọi, vì trong văn hóa Do Thái, «danh» hay «tên»
còn có nghĩa là chính bản thân người có tên ấy. Do đó, câu «không có một
danh nào khác» (Cv 4,12) phải được hiểu là «không có một Đấng nào khác»,
và Đấng ấy chính là Đấng Kitô phổ quát, trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và
con người. Tuy nhiên, Đấng Kitô không phải chỉ là Đức Giêsu ở Nazarét, mà
Ngài có thể mặc lấy nhiều thân xác khác, trong những nền văn hóa khác.
Tất cả những thân xác ấy chỉ là một Đấng Kitô duy nhất, là trung gian
duy nhất giữa Thiên Chúa và con người.
Rút
kinh nghiệm trong Cựu Ước
Hiểu như
thế quả không có gì là quá đáng khi so sánh với cách hiểu hiện nay về
lời Thiên Chúa hứa với Abraham là sẽ cho ông «sinh ra một dòng dõi nhiều như
sao trời, và như cát ngoài bãi biển, không tài nào đếm được» (Dt 11,12). «Dòng
dõi» ở đây không thể hiểu theo nghĩa thường hiểu là «con
cháu theo máu mủ» (vì hiểu theo cách này thì rõ ràng cho tới nay lời hứa
đó chưa được thực hiện), mà phải hiểu là «con cháu theo niềm tin».
Thời Chúa Giêsu trở về trước, có lẽ không người Do Thái nào có thể chấp
nhận được lối giải thích «trớ trêu» như thế. Nhưng lối «trớ trêu»
ấy lại đúng, và lối «thường tình» kia ngờ đâu lại sai!
Hay làm
sao người Do Thái thời Chúa Giêsu trở về trước lại có thể hiểu những lời tiên
tri của các ngôn sứ về Đấng Mêsia như chúng ta hiểu hiện nay được? Cứ
theo nghĩa đen của Kinh Thánh thì khi Đấng Mêsia tới, Ngài sẽ phải có binh hùng
tướng mạnh để giải phóng Dân Ngài khỏi ách thống trị ngoại bang, đem lại vinh
quang cho «Dân tộc riêng» của Ngài. Còn cách hiểu nào khác có thể chấp
nhận được nữa? Nếu có ai giải thích cách nào khác – chẳng hạn như cách chúng ta
đang hiểu hiện nay – chắc chắn người thời đó không ai chấp nhận được. Nhưng
ngờ đâu cách không thể chấp nhận được ấy lại xẩy ra, và cách mà ai cũng
nghĩ sẽ xảy ra và mong muốn sẽ xảy ra, trong thực tế đã không xảy ra!
Tương tự
như thế, không hẳn hai câu Kinh Thánh 1 Tm 2,5 và Cv 4,12 sẽ được ứng
nghiệm đúng theo nghĩa đen của chúng.
Muốn
hiểu Kinh Thánh, cần có tình yêu
và lòng khiêm nhượng
Sự gì đã
từng xảy ra trong lịch sử cũng có thể sẽ xảy ra trong tương lai. Do đó,
chúng ta không nên chấp cứng vào thành kiến có sẵn của mình kẻo sẽ vấp
phải những lầm lỡ tai hại như những người Do Thái xưa, lầm lỡ đến nỗi đã giết
chính Con độc nhất của Thiên Chúa. Không khéo chúng ta sẽ vấp phải «hòn đá
vấp phạm» (Is 28,16; Rm 9,33) của Thiên Chúa chỉ vì hiểu lời Chúa theo
nghĩa đen.
Để hiểu
Kinh Thánh, chúng ta cần phải có tình yêu và lòng khiêm nhường. Tính
kiêu ngạo muốn đề cao cá nhân hay tập thể của mình, đồng thời muốn hạ thấp
người khác, và tính thiếu yêu thương không muốn chia sẻ hạnh phúc và vinh quang
của mình cho người khác hay tập thể khác có thể khiến người ta hiểu sai Lời của
Thiên Chúa, Đấng vốn là Tình Yêu, Đấng không ưa những tâm tình kiêu căng (x. Lc
18,9-17), bè phái (x. Mc 9,38), Đấng thích mặc khải chân lý cho những tâm hồn
khiêm nhường (x. Mt 11,25).
Phải có cùng
một tâm tình, ý hướng với Đức Kitô, ta mới có thể hiểu đúng ý Ngài. Làm sao
ta có thể hiểu đúng ý Ngài khi ta cứ muốn tôn mình lên, tôn tập thể của mình
lên, đồng thời hạ thấp người khác xuống? hay khi trong vô thức, ta chỉ
muốn Thiên Chúa ban cứu rỗi cho những người trong tôn giáo của mình thôi? Những
tâm tình ích kỷ và kiêu căng như thế luôn luôn bị Đức Kitô kết án, Ngài
luôn luôn kết án những kẻ thích kết án người khác (x. Mt 7,1; Lc
18,9-17), những kẻ không có lòng thương xót (x. Mt 18,23-35; 25,41-46).
Đấng
Kitô trong các tôn giáo khác
Như vậy, theo
cha Panikkar, Đấng Kitô phổ quát có thể tự biểu hiện một cách cá biệt trong
các tôn giáo khác, để mặc khải và cứu độ con người một cách thích ứng và phù
hợp với các nền văn hóa cá biệt của nhân loại. Do đó, các tôn giáo ấy cũng
có thể là những tôn giáo tuy khác với Kitô giáo, nhưng cũng phát xuất từ
Thiên Chúa. Vì thế, các tôn giáo cần phải đối thoại và tìm hiểu lẫn nhau để
có một nhãn quan đầy đủ và đa diện hơn về Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không
phải là một thực tại đơn diện (một mặt) để nhãn quan của một tôn giáo có
thể bao trùm hết được. Nghĩ rằng những «chân lý» trong tôn giáo của mình
có thể bao trùm được hết cả Thực Tại Thiên Chúa thì quả là «coi trời bằng
vung», là thái độ «ếch ngồi đáy giếng». Thái độ đó là
thái độ vô tình vũ nhục Thiên Chúa.
III. Quan niệm của
S.J. Samartha, đại diện của Giáo Hội Nam Ấn, là người phụ trách chương trình «Đối thoại với những người khác tín ngưỡng và khác ý thức hệ» của «Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội» (COE) từ 1968 đến 1980, cũng chủ trương tương tự như vậy. Theo ông, tất cả mọi tôn giáo đều tương đối nhưng cần thiết, và Thiên Chúa đã gặp gỡ chúng ta qua nhiều trung gian cá biệt. Còn Kitô giáo nên theo gương Đức Kitô tìm lại hướng đi lấy Thiên Chúa làm trung tâm của mình. Đức Kitô đâu có tự lấy mình làm trung tâm cho hiện hữu của mình cũng như cho sự hiện hữu của người khác. Ngài luôn luôn lấy Thiên Chúa, Cha Ngài làm trung tâm: Nhất cử nhất động Ngài đều làm theo ý của Cha Ngài (x. Mt 26,39.42; Ga 4,34; …).
Với hướng này, các Kitô hữu mới dễ gặp gỡ những anh em khác tôn giáo với mình. Gặp gỡ và chia sẻ yêu thương với đồng loại, cho dù họ khác tôn giáo với mình, đó chẳng phải là điều hợp thánh ý Thiên Chúa sao? Với tư cách là Kitô hữu, và với những Kitô hữu khác (tức đồng đạo với mình), chúng ta cứ việc lấy Đức Kitô làm trung tâm theo quan niệm và niềm tin của mình. Nhưng khi đối thoại với những người khác tôn giáo, ta nên cùng với họ, lấy Thiên Chúa hơn là Đức Kitô làm trung tâm. Chúng ta không nên vì Đức Kitô mà trở nên xa cách với đồng loại của mình, mà không gần gũi và đối thoại được với họ. Khi còn sinh thời, Đức Kitô chẳng phải là người luôn luôn tìm cách phá bỏ mọi hàng rào ngăn cách giữa người với người sao? Những hàng rào ngăn cách đó thường là sự khác biệt về địa vị, giai cấp, mức độ thánh thiện, và cả tôn giáo nữa. Chỉ khi gần gũi và thân tình đối thoại với mọi người, với những người trong các tôn giáo, ta mới có thể làm chứng và tuyên xưng rằng «không có nơi nào mà đau khổ và cái chết lại bị chiến thắng một cách quyết liệt bằng trong cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu Kitô». Lời tuyên tín này sẽ là lời chứng cho Đức Giêsu, Đấng Mặc Khải mà các Kitô hữu nhìn nhận, mà không hề có ý phủ nhận những Đấng Mặc Khải khác.
Não
trạng «duy Kitô Giáo» tại Tây phương
Quan niệm
của Kitô giáo về các tôn giáo khác đã theo thời gian mà thay đổi. Sự thay đổi
xảy ra một phần nào do ảnh hưởng của những tư tưởng Kitô giáo Đông phương. Thật
ra, quan niệm nào cũng bị chi phối bởi môi trường văn hóa, xã hội, chính trị,
kinh tế… của người suy tư. Tại Âu châu, Kitô giáo chiếm địa vị độc tôn, nên
quan niệm của các thần học gia Tây phương dễ trở thành «duy Kitô giáo»
mang tính «một chiều». Cũng tương tự như một người Việt chỉ sống
giữa người Việt, chỉ biết có người Việt, thì rất dễ có não trạng «duy Việt
Quan niệm
«ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ» đương nhiên phát sinh dễ dàng trong
một bối cảnh văn hóa xã hội vốn chỉ có Kitô giáo như thế. Trong bối cảnh ấy,
nếu có những tôn giáo địa phương khác, thì đó chỉ là những «bán tôn giáo»,
không có nền tảng giáo thuyết vững chắc. Các thần học gia Tây phương thời
đó chưa biết một tôn giáo nào khác có nền tảng lý thuyết vững chắc ngang
tầm với Kitô giáo cả. Nếu có biết thì cũng biết một cách không chính xác,
thậm chí sai lạc nữa. Và họ đánh giá các tôn giáo lớn ở Đông phương không hơn
gì các tôn giáo địa phương của họ. Vì thế, với một số câu Kinh Thánh nói lên
khả năng cứu độ duy nhất của Chúa Kitô, tất nhiên họ phải đi đến lập trường «duy
Kitô giáo», «duy Giáo Hội».
Quan
niệm
«Kitô giáo cùng với các tôn giáo khác»
tại Đông phương
Còn các
thần học gia tại Á châu sống trong một bối cảnh khác hẳn, nên mang một
não trạng khác hẳn, vì tại Á châu, Kitô giáo chỉ là một thiểu số sống
giữa những khối tôn giáo khác rất đồ sộ, có nền tảng triết lý rất vững chắc
và thâm sâu. Vả lại, giáo thuyết của Kitô giáo – vốn mang nặng tính Tây
phương – không có sức thuyết phục dân chúng Á châu hơn những giáo thuyết
của các tôn giáo tại đây.
Vào thế kỷ
20, khi việc giao lưu văn hóa trên thế giới phát triển mạnh, các triết gia Tây
phương càng ngày càng khám phá ra kho tàng minh triết của các tôn giáo Đông
phương, nên cái nhìn của họ về các tôn giáo Đông phương càng ngày càng thay
đổi. Người Tây phương càng ngày càng giảm bớt khuynh hướng tự hào về triết lý
của mình và càng thán phục nền minh triết Đông phương hơn. Vì thế, khi hiểu
thâm sâu và đúng đắn các tôn giáo Đông phương, người ta không thể còn não
trạng khinh thị như khi chưa biết chúng. Và những Kitô hữu một khi hiểu
biết sâu xa các tôn giáo Đông phương thường khó có thể có cùng một kết luận về
các tôn giáo ấy với những Kitô hữu chưa hiểu rõ (x. chương 6, trang 145). Đối
với họ, não trạng «duy Kitô giáo» khó có thể chấp nhận được.
Trong bối cảnh tôn giáo như thế, các thần học gia Á châu dễ có khuynh hướng
quan niệm «Kitô giáo cùng với các tôn giáo khác», ngược lại với
quan niệm «Kitô giáo đối nghịch với các tôn giáo khác» của các
thần học gia Tây phương xưa.
Các
tôn giáo là những con đường khác nhau…
Và Giáo
Hội toàn cầu, do chủ trương đối thoại với các tôn giáo cũng như những ý
thức hệ khác mình, càng ngày càng hiểu các tôn giáo khác hơn, và càng
hiểu biết các tôn giáo, Giáo Hội càng trở nên bao dung hơn. Công Đồng
Vatican II là một bước tiến vĩ đại hay một cuộc cách mạng lớn trong
chiều hướng này. Kinh nghiệm của những người tìm hiểu sâu xa các tôn giáo khác bằng
cách sống theo tinh thần những tôn giáo ấy – nghĩa là tìm hiểu theo kiểu hành
giả chứ không phải học giả – cho thấy: các tôn giáo khác đều là những
con đường khác nhau để tiến tới mầu nhiệm Thiên Chúa, để cảm nghiệm được
chính Thiên Chúa, vốn được gọi bằng những tên khác nhau và quan niệm
theo nhiều cách khác nhau trong các tôn giáo. Mỗi tôn giáo có một cách
riêng, có thể cách này có ưu điểm hơn cách kia, nhưng tất cả những cách khác
nhau ấy đều bổ túc lẫn nhau để có thể hiểu được mầu nhiệm muôn mặt của
Thiên Chúa. Còn việc có đạt tới mầu nhiệm Thiên Chúa hay không, không tùy
thuộc vào phương tiện hay con đường cho bằng tùy thuộc vào chính con người.
Vì «Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại
núi e sông» (Nguyễn Bá Học).
Một hành
giả, dù được sinh ra và lớn lên trong một tôn giáo «được giả thiết là tà
giáo đi nữa», nhưng hành giả ấy có lòng khao khát gặp được chân lý,
và quyết tâm lên đường tìm kiếm ngay trong tôn giáo của mình, đồng thời sẵn
sàng hy sinh tất cả cho chân lý, thì cuối cùng hành giả đó sẽ thành công.
Còn một học giả, hay một người thiện chí, được sinh ra và trưởng thành trong
truyền thống một tôn giáo «được giả thiết là chính đạo», cũng
muốn đi tìm chân lý, muốn cảm nghiệm được Thiên Chúa, nhưng lại không dám hy
sinh cho Thiên Chúa hay chân lý, người ấy khó lòng đạt tới. Chính Đức Kitô đã
nói: «Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không xứng đáng với Ta. Ai yêu con cái hơn Ta
thì không xứng đáng với Ta. Ai không vác thập giá mình mà theo Ta cũng không
xứng đáng với Ta. Ai tìm sự sống mình sẽ mất, ai sẵn sàng để mất sự sống mình
vì Ta thì lại tìm thấy sự sống» (Ga 10,37-39).
Trong rất
nhiều câu nói của Đức Kitô, Ngài nói thay cho Thiên Chúa và Chân Lý Tối Thượng
hơn là nói về chính Ngài, vì Ngài là theo chủ người trương «tự hủy»,
Ngài không bao giờ muốn tự đề cao mình.
Tư
tưởng của Giáo Hội
không ngừng tiến tới hoàn thiện
Đương
nhiên, Giáo Hội sẽ không thể ngừng lại ở quan điểm hiện tại của mình.
Nếu trong quá khứ, tư tưởng của Giáo Hội đã từng tiến mãi, thì chắc chắn trong
tương lai tư tưởng của Giáo Hội cũng sẽ còn tiến mãi, để càng ngày càng tiến
gần đến hoàn hảo hơn. Các Kitô hữu hãy sẵn sàng đón nhận những bước tiến mới
càng ngày càng nhanh hơn của Giáo Hội.
Muốn tiến
tới chân lý và sự hoàn thiện, Giáo Hội phải gắn bó nhiều hơn với chân lý và
tình yêu chứ không phải với những tín điều, những cách diễn tả chân lý hay
những nguyên tắc cố hữu của mình. Kinh nghiệm trong lịch sử Giáo Hội cho thấy:
những người đưa ra những định thức mới của chân lý, những quan niệm mới hay
nhận thức mới về một vấn đề quan trọng nào đó bao giờ cũng bị đả kích, bị coi
là lệch lạc, thiếu đúng đắn, thậm chí còn bị coi là phá hoại Giáo Hội. Nhưng về
sau, quan niệm của họ lại trở thành quan niệm chính thức của Giáo Hội. Họ quả
là những người đi trước thời đại, thấy được những gì mà người đồng thời chưa
thấy. Chính vì thế họ phải trả giá bằng sự bạc đãi, bách hại do chính những
đồng đạo hoặc bề trên của mình [17]. Số phận của các ngôn sứ bao giờ cũng thế, vì chân lý mà «bị
người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa» (Lc 6,22)
như Đức Giêsu đã tiên báo.
[17] Những người này
thường tôn vinh các ngôn sứ của những thời đại trước, nhưng lại bách hại chính
những ngôn sứ của thời đại mình, như Đức Giêsu đã từng tiên báo: «Các người
xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính. Các người nói: “Nếu
như chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với
các ngài mà đổ máu các ngôn sứ”. Như vậy, các người tự làm chứng rằng các người
đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ» (Mt 23,29-31). Chính khi
họ bách hại các ngôn sứ, họ vẫn tưởng làm như thế là bảo vệ đạo Chúa: «Sẽ
đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa» (Ga 16,2).
Những sự
kiện như thế đã từng xảy ra trong quá khứ chắc chắn cũng sẽ được lập lại trong
tương lai. Vì thế, chúng ta đừng vội lên án những quan niệm khác với quan niệm
đang hiện hành trong Giáo Hội mà một vài đồng đạo nào đó của mình đưa ra. Trước
khi lên án họ, phải xét xem: họ là người thế nào? có đời sống đạo đức ra sao?
là người từng xây dựng hay đả phá Giáo Hội? Rất có thể họ sai lầm. Nhưng cũng rất
có thể họ đúng vì họ thấy xa hơn những gì mọi người đang thấy. Rất có thể thế
hệ sau – thậm chí nhiều thế hệ sau – nhân loại mới thấy được điều họ đang thấy [18].
[18] Những tiểu thuyết
của Jules Vernes như «Journey to the Center of Earth = Thám hiểm lòng đất»
(1864), «From The Earth to the Moon = Từ trái đất đến mặt trang» (1865),
«Twenty Thousand Leagues under the Sea = Hai ngàn dậm dưới đáy biển»
(1869-70), «Around the World in Eighty Days = Vòng quanh trái đất 80 ngày»
(1873), v.v… vào thời của ông được mọi người coi là những giấc mơ hão huyền,
nhưng ngày nay tất cả đã trở thành sự thật.
Một số (có thể nói là đa số) chủ
trương của Luther – người sáng lập đạo Tin Lành – bị Giáo Hội không chấp nhận
thời ấy nay lại được Giáo Hội chấp nhận và thực hiện. Chẳng hạn như việc dịch Kinh Thánh sang
tất cả các thứ tiếng trên thế giới và việc phổ biến Kinh Thánh cho tất cả mọi
người.
Để có thể
kịp tiến bước với tư tưởng thời đại, thiết tưởng chúng ta cần hành động theo
đòi hỏi của lương tri chúng ta hơn là theo những tín điều hay các định thức
chân lý của thời đại, theo lương tâm của chúng ta hơn là theo những luật lệ [19]. Vì những tín điều hay
luật lệ là những định thức của chân lý, của sự thiện, chỉ phù hợp cho một thời
đại nào đó trong một không gian nào đó của con người. Còn lương tri của con
người là ân sủng Thiên Chúa ban để soi sáng cho con người nhận biết chân lý và
sự thiện trong mọi thời đại. Dựa vào một định tín hay một định thức nào đó để
phủ nhận một đòi hỏi nào đó của lương tri con người là một việc làm thiếu đúng
đắn, nếu không muốn nói là tội lỗi.
[19] Đức Giêsu đã hành động theo lương tri của mình chứ
không phải theo lề luật của tôn giáo mình. Đức Giêsu hoặc các tông đồ đã nhiều
lần lỗi luật sabát vì lý do bác ái hay vì một lý do chính đáng khác. Chẳng hạn:
các môn đệ Đức Giêsu bứt bông lúa mì (x. Mt 12,1-8; Mc 2,23-28; Lc 6,1-5); Đức
Giêsu chữa người bị bại tay (x. Mt 12,9-14; Mc 3,1-6; Lc 6,6-11); chữa một phụ
nữ còng lưng (Lc 13,10-17); chữa người mắc bệnh phù thũng (Lc 14,1-6); chữa một
người đau ốm ở hồ nước tại Bếtdatha (Ga 5,1-18); chữa một người mù từ thuở mới
sinh (Ga 9,1-41). Tất cả những việc làm ấy đều là lỗi luật ngày sabát. Ngài đã
bị các kinh sư và luật sĩ cảnh cáo nhiều lần về việc Ngài lỗi luật ngày sabát,
và tìm cách giết Ngài, nhưng Ngài vẫn bất chấp, vẫn cứ lỗi luật sabát vì lương
tâm đòi hỏi phải làm như thế. Ngài đã làm theo đòi hỏi của lương tâm mình bất
chấp nguy hiểm bị tôn giáo của Ngài kết án.
Thay
đổi một quan niệm cổ hủ
không phải chuyện dễ, một sớm một chiều
Chúng ta
hãy cùng đọc một đoạn văn trong cuốn truyện «Chiếc lều của chú Tom» của
Harriet Beecher-Stowe. Sau đây là một phần cuộc đối thoại giữa hai anh em ruột
Augustin và Alfred, một người quyết tranh đấu giải phóng nô lệ và một người
cương quyết giữ chế độ nô lệ:
«–
Không phải ai sinh ra cũng tự do và bình đẳng. Những người giàu có học thức, có
giáo dục, phải được quyền bình đẳng. Những người khác thì không.
-- Không
nên nói thế. Họ cũng có giáo dục, nhưng chúng ta không hiểu nền giáo dục đó. Hệ
thống xã hội hiện nay của chúng ta là tàn ác và dã man. Chúng ta biến những con
người đó thành súc vật! Một ngày nào đó, họ sẽ không chịu để cho bị bán và bị
mua như vậy nữa, và họ sẽ nổi dậy!
– Chuyện
ngốc nghếch! Nếu tôi nghĩ như anh, tôi sẽ dạy dỗ nô lệ của tôi!
-- Nhưng
họ bị hệ thống xã hội của chúng ta đè bẹp! Cầm bằng như đặt trên lưng họ một
trái núi và bảo họ đứng dậy! Để họ được giáo dục, nhà nước phải làm một cái gì
đó! Augustin trả lời» [20].
[20] HARRIET BEECHER-STOWE, Chiếc lều của chú Tom.
Một đoạn
khác:
«Marie
Saint-Clare không có chút tôn trọng đối với nô lệ của họ. Nàng không ngớt chê
bai họ. (…) Về phần Ophelia, cô chia sẻ quan niệm của Augustin và mím môi tỏ
dấu phản đối khi nghe Marie nói:
– Chị
không nghĩ rằng Chúa đã tạo ra người da đen cùng một thứ máu như chúng ta sao?
Ophelia hỏi Marie.
– Tôi
không nói là không – Marie ngáp – Nhưng so sánh linh hồn họ với linh hồn của
chúng ta là không thể được» [20].
[20] HARRIET BEECHER-STOWE, Chiếc lều của chú Tom.
Người miền
Ta cảm
thấy tức cười khi biết về quan niệm của họ. Nhưng con cháu chúng ta có thể tức
cười khi biết quan niệm của ta hiện nay. Để xóa bỏ quan niệm không đúng đắn về
phẩm giá của người nô lệ, nước Mỹ đã phải tốn biết bao xương máu và thời gian!
Cũng vậy, để xóa bỏ những quan niệm chưa đúng đắn của chúng ta – trong đó có cả
tôi nữa – nhiều khi cũng phải tốn công sức và thời gian, thậm chí sự hy sinh
của nhiều người!
Nếu ta
không suy nghĩ theo đòi hỏi của lương tri tự do mà cứ cố chấp vào những quan
niệm hiện có của chúng ta, của thời đại chúng ta, chúng ta chẳng những sẽ bị
vượt qua, mà còn tạo nên ngăn trở cho đà tiến của xã hội, Giáo Hội và thế giới
nữa.
Nguyễn Chính Kết
(Saigon 1988)
Comments
Post a Comment