Trí Tuệ: Sinh Mệnh Của Đạo Phật
Trí
Tuệ:
Sinh Mệnh Của Đạo Phật
https://www.tuvienquangduc.com.au/coban-2/379tritue.html
https://phatgiaovietnamhaingoai.org/a448/tri-tue-sinh-menh-cua-dao-phat-dao-van-binh
Nhân đọc bài viết về tiểu sử và sự nghiệp hoằng pháp
của Tôn Giả Ca Chiên Diên (Maha Katyayana) một trong mười đại đệ tử của Đức
Phật nổi tiếng là “biện luận đệ nhất” đăng trên trang mạng Hoằng Pháp Hà Nội
tôi không nén được xúc động và không thể không bày tỏ lòng tôn kính tột độ đối
với một vị bồ tát, một đạo sư thật vĩ đại đã đi đúng mạch sống của Phật Giáo,
đi đúng giáo lý của Đức Phật và xứng đáng đại diện Phật nói trước đại chúng
trong một số pháp hội. Bằng lý luận đanh thép, bằng chứng nghiệm bản thân, Tôn
Giả Ca Chiên Diên đã dùng ánh sáng trí tuệ chiếu rọi vào tận cùng của sự vật,
những khúc mắc của chuyện đời, cội nguồn khổ đau của nhân thế, đâu là thánh
thiện, đâu là bợn nhơ, đâu là đạo giải thoát rốt ráo và đâu là con đường phải
theo. Và những điều đó đã thuyết phục và chuyển hóa lòng người.
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng
Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
và sức mạnh của lý trí để giải quyết vấn đề tâm linh của con người cùng những vấn nạn của xã hội mà không dựa vào
Thần Linh. Đây là sự kiện lạ lùng và chấn động vì khi đó Bà La Môn Giáo đang
thời cực thịnh mà Brahma (Thượng Đế) là điểm tựa duy nhất để giải quyết mọi vấn
đề. Trong quá trình tu chứng 49 ngày cuối cùng, Đức Phật không dựa vào thần
quyền, không cầu nguyện van vái. Mà Ngài đã trải qua những chặng đường chuyển
hóa nội tâm « chứng được quả Túc Mệnh
Thông tức thấy rõ tất cả khoảng đời quá khứ của mình trong tam giới. Đến nửa
đêm Ngài chứng được quả Thiên Nhãn Minh, thấy được bản thể của vũ trụ và nguyên
nhân cấu tạo của nó. Đến canh tư Ngài chứng được quả Lậu Tận Minh, rõ biết
nguồn gốc của khổ đau và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh
tử, luân hồi.» (1) Và cuối cùng Ngài vẫn còn phải chiến đấu với những níu
kéo ghê gớm của Ái - Dục vốn gắn chặt với kiếp người, biểu hiện qua cuộc chiến
đấu với Ma Vương.
Trong suốt 45 năm hành đạo, thu nhận, dạy dỗ đệ tử,
Đức Phật chỉ nói về những gì Ngài trải qua và chứng đắc, không thêm, không bớt
và không giữ lại cho mình bất cứ điều gì. Giáo pháp của Ngài là một kho tàng tư
tưởng nhân bản, lý luận phong phú, dùng ẩn dụ, dùng toán học, khúc triết, có
dẫn chứng, có so sánh để khai mở trí tuệ. Ngoài danh hiệu « Đấng Từ Phụ», Đức Phật còn là một triết gia, một nhà giáo dục, một
tâm lý gia vĩ đại mổ xẻ những khúc mắc tâm lý của con người.
Từ những điểm thù thắng và hi hữu nói trên, qua cuộc
đời bằng xương bằng thịt của Đức Phật, qua công hạnh và việc hoằng pháp của các
đệ tử của Ngài, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm của Phật Giáo như sau:
a) Đạo Phật không dựa vào Thần Linh, phép mầu nhiệm
để xây dựng nền tảng giáo lý của mình. Đạo Phật trực chỉ nhân tâm, lấy con
người làm gốc, lấy sức mạnh của con người -
tức bộ óc - tức trí tuệ của con người - để giải quyết những vấn đề của
con người. Hạnh phúc do con người kiến tạo. Khổ đau do con người tự gây ra cho
nhau và cho chính mình. Khi dùng trí tuệ làm nền tảng thì ai cũng như ai, mọi
người đều bình đẳng vì ai cũng đều có trí tuệ, ai cũng có Phật tánh. Khi dùng
Thần Linh làm nền tảng thì con người trở thành tôi tớ cho Thần Linh. Tầng lớp
trung gian với Thần Linh sẽ trở thành Thánh và có quyền sinh sát, có quyền
quyết định vận mệnh của con người bởi vì chỉ có tầng lớp trung gian này mới có
khả năng tiếp cận hoặc là đại diện chân chính của Thần Linh mà thôi.
Trước khi gặp Phật, nhờ sự thông thái đặc biệt mà Tôn
Giả Ca Chiên Diên đã có thể đọc được tấm bia đá viết bằng cổ ngữ do vua của
Thành Ba La Nại đào được mà người đời cho rằng đó là văn tự của Đấng Phạm Thiên
(Thượng Đế). Dù đọc được nhưng Tôn Giả không sao tìm ra lời giải đáp. Tấm bia
viết như sau:
Vua của các
vị vua là ai?
Thánh của các bậc thánh là ai?
Thế nào là người ngu?
Thế nào là người trí?
Làm sao xa lìa được dơ bẩn?
Làm sao chứng đạt được niết bàn?
Ai chìm đắm trong biển sinh tử?
Ai tiêu dao tự tại trong cõi giải thoát?
Dù đã đi vấn hỏi Nhóm Lục Sư là những nhà thông thái
nhất lúc bấy giờ, họ cũng không tìm ra lời giải đáp. Cuối cùng, nhớ lời dặn của
người cậu là Đạo Sĩ A Tư Đà (Asita) trước khi qua đời, Tôn Giả đã phải tới
thỉnh hỏi Đấng Đại Giác và sau đây là giải đáp của Đức Phật:
Vua của các vua là vị thiên vương cung trời thứ sáu.
Thánh của các bậc thánh là đức đại giác
Phật Đà.
Để cho vô minh làm ô nhiễm là người
ngu.
Có khả năng tiêu diệt mọi phiền não là
người trí.
Dứt bỏ được tham sân si thì lìa được dơ
bẩn.
Hoàn thành được giới định tuệ thì chứng
niết bàn.
Còn vướng mắc vào ngã và pháp là còn
chìm đắm trong biển sinh tử.
Thấy rõ được pháp tánh duyên khởi thì
tiêu dao tự tại trong cõi giải thoát. (2)
Lời giải đáp
không hề dựa vào bóng dáng của thần quyền, không huyền hoặc, hoàn toàn thuần
lý, rõ ràng và bày tỏ sự chứng đắc rốt ráo của đấng Đại Giác, khiến cho «những bóng mờ vẫn ẩn núp trong tâm trí ông
từ bấy lâu nay đều bị ánh sáng trí tuệ quét sạch.» (3) Và đây
là nguyên do khiến Tôn Giả tới đảnh lễ qui y và trở thành đệ tử của Đức Phật,
từ bỏ danh vọng, quyền thế cao tột của dòng dõi Bà La Môn.
b) Đạo Phật không dựa vào những thiên tai dịch họa
như núi lửa, động đất, sóng thần, hạn hán, lụt lội, bệnh tật hoặc những tai họa
do chính con người gây ra như chiến tranh v.v…để minh chứng cho sự hiện hữu của
Thần Linh để rồi từ đó hù dọa, khuyến dụ con người tôn thờ Thần Linh và đi theo
đạo tôn thờ Thần Linh. Đạo Phật đi lên từ những khổ đau của con người trong đó
thiên tai, dịch họa chỉ là một trong những khổ đau của con người. Chính bản
thân Đức Phật khi còn là thái tử đã phải đối đầu với những khổ đau như Sinh,
Lão, Bệnh, Tử mà giáo lý của thần giáo
đương thời, thậm chí thân phụ ngài, dù là một quốc vương cũng không sao giải
quyết được. Ngài từ bỏ cung vàng điện ngọc ra đi không phải đi tìm thiên đàng,
không phải để tu luyện phép mầu mà chỉ để giải quyết những khổ đau của chính
mình và của nhân thế. Do đó Đạo Phật là đạo diệt khổ. Khổ Đế là khởi nguyên của
Đạo Phật. Cứu cánh của Phật Giáo là giải thoát khỏi khổ đau, giải thoát khỏi sự
thống ngự của thần quyền, giải thóat khỏi Tham-Sân-Si là nguyên do của bao thảm
họa xảy ra trên cõi đời này. Dĩ nhiên khi đã diệt hết khổ thì chúng ta hạnh
phúc. Niết Bàn chỉ là trạng thái mà con người đã xa lìa tất cả các phiền não
chứ không phải là cuộc sống ở một cung trời nào đó. Do đó, trong Đạo Phật, bất
cứ ai tự xưng mình là thánh thần mà còn nhăn nhó, khổ đau, van nài, kêu cứu…thì
đó là chỉ là phàm phu chứ không phải thánh thần. Vì không tôn thờ Thần Linh,
không tôn thờ Tự Ngã cho nên cứu cánh của Phật Giáo không phải là sự thờ
phượng. Nếu chúng ta có thờ Phật cũng chỉ để tôn thờ một bậc thầy vĩ đại để từ
đó đi theo giáo lý của Phật, để được hạnh phúc như chính Phật. Truyện về quãng
đời hoằng pháp của Ngài Ca Chiên Diên kể rằng: (4)
«Một lần nọ,
khi Đức Phật trở về quê hương Ca Tỳ La Vệ để giáo hóa. Trong số tăng chúng đi
theo có Tôn Giả Ca Chiên Diên. Phật và đại chúng tạm trú tại thôn Hạ Lỵ. Trong
thời gian lưu trú tại đây, một hôm, trong thôn có một vị trưởng giả lâm trọng
bệnh. Ca Chiên Diên muốn đích thân đến dùng Phật pháp để tiêu trừ bệnh khổ cho
ông ta.
Tôn Giả
đến trong lúc vị trưởng giả đang nằm trên giường bệnh. Tôn Giả hỏi thăm:
- Thưa
trưởng giả! Đức Thế Tôn nghe nói trưởng giả không được khỏe nên sai tôi đến
thăm. Chẳng hay trưởng giả đã cho mời thầy thuốc đến chữa trị chưa?
Vị trưởng
rất cảm động trả lời:
- Con xin
cám ơn Đức Thế Tôn và đại đức. Bịnh của con đã đến lúc quá nặng rồi, không còn
hi vọng gì chữa được. Rất nhiều thầy thuốc đều đã bảo như vậy.
- Vậy xin
trưởng giả hãy chuyên tâm quán niệm Tam Bảo, mong nhờ uy đức lớn lao của Tam
Bảo mà tâm ý của trưởng giả được thanh tịnh, rồi bịnh sẽ thuyên giảm.
- Thưa đại
đức! Con qui y Tam Bảo với hi vọng được hộ trì Tam Bảo để đam lại lợi lạc cho
nhân gian. Con nên hiến cúng cho Tam Bảo những gì mình có chứ đâu dám yêu cầu
này nọ nơi Tam Bảo!
- Trưởng
giả nói rất đúng! Cõi thế gian là vô thường, chúng ta không thể nào yêu cầu Tam
Bảo làm cho ta được thường trú mãi mãi. Thân thể phải bị bịnh tật, chúng ta
không thể nào yêu cầu Tam Bảo làm cho ta khỏe mạnh suốt đời. Người có đức tin
vào Tam Bảo lúc nào cũng hi sinh cá nhân để xây dựng cuộc sống chung. Bịnh
hoạn, đau khổ của cá nhân, chúng ta hãy biết tự lo lấy chứ đâu có dám làm phiền
đến Phật Pháp Tăng, nhưng thưa trưởng giả, sức người thì có giới hạn mà ánh từ
quang của Tam Bảo thì trải khắp mọi nơi, nếu chúng ta thành tâm cần cầu thì ánh
từ quang ấy sẽ rọi chiếu đến.
Nghe lời
khuyên của Ca Chiên Diên, vị trưởng giả hàng ngày chuyên niệm Tam Bảo. Ông cảm
thấy thân tâm dần dần trở nên an lạc và bệnh tình cũng ngày càng thuyên giảm.»
Lời khuyên của Tôn Giả thật nhân bản, hợp tình, hợp
lý. Dĩ nhiên Tam Bảo không thể chữa lành bệnh cho ai. Ai nói rằng Phật Pháp
Tăng có thể chữa lành bệnh cho tất cả mọi người thì đó là sự lừa mị. Thế nhưng
nếu chúng ta chú tâm nhiếp niệm Tam Bảo thì thân tâm chúng ta thanh tịnh, nghị
lực tăng trưởng. Có thể vì thế mà chúng ta lướt qua được bệnh tật. Đó cũng là
phương pháp tâm lý trị liệu của thời đại ngày hôm nay.
c) Đạo Phật không dùng tình cảm để thuyết phục ai. Vì
Đạo Phật nhằm khai mở trí tuệ cho con người cho nên Đạo Phật không lợi dụng
tình cảm yếu đuối, không lợi dụng những hoàn cảnh khốn khó của người để truyền
đạo. Đạo Phật luôn luôn đến với con người khi con người sáng suốt nhất. Đạo
Phật là sự bừng nở hoa tâm, giã từ sự ích kỷ, giã từ gian tham, giã từ tật đố,
giã từ bóng tối, giã từ kiêu mạn, giã từ cái hữu hạn để tìm về nơi vô hạn. Do
đó có thể nói «Nếu bạn mở cánh cửa Trí
Tuệ ra, bạn sẽ thấy Đạo Phật. Nếu bạn khép cánh cửa Trí Tuệ lại, bạn sẽ không
thấy Đạo Phật.» Đạo Phật không dùng ơn nghĩa để truyền đạo. Trong khi người
ta đói khát mình cho người ta một bát cơm đó là cử chỉ đẹp, nhưng lợi dụng bát
cơm đó để dụ người ta vào đạo là một hành vi cưỡng ép và ngay trong cử chỉ «cho» đó đó đã ngầm chứa một âm mưu, một
thủ đoạn bất chính. Đạo Phật là đạo «phá
tà hiển chính». Chúng ta có thể cam đoan rằng không một tu sĩ Phật Giáo nào
có can đảm làm thế. Nếu họ làm thế thì họ là tín đồ của «Ma Giáo» chứ không phải Phật Giáo và họ nên cửi áo của Như Lai để
đi theo một tôn giáo khác. Chúng ta hãy xem Tôn Giả Ca Chiên Diên hóa độ một
người đàn bà nô lệ bất hạnh:
«Một hôm, sau
khi hành hóa ở A Bàn Đề, Ca Chiên Diên lên đường trở về Tịnh Xá Kỳ Viên ở Thành
Xá Vệ. Giữa đường, tôn giả trông thấy một thiếu phụ ôm một vò nước, ngồi khóc
lóc thảm thiết bên bờ sông, tình cảnh có vẻ rất thương tâm. Sợ người thiếu phụ
vì quá thất ý mà có thể nhảy xuống sông tự tử, tôn giả vội vàng đến hỏi thăm:
- Thưa bà!
Có chuyện gì làm bà đau khổ đến nỗi khóc lóc thảm não như vậy?
Nghe có
người hỏi, thiếu phụ càng khóc to thêm:
- Thôi ông
hỏi han làm gì, dù có nói cũng vô ích thôi!
- Thưa bà!
Xin bà cứ nói! Tôi là đệ tử của đức Phật. Tôi có thể giúp bà giải quyết được
bất cứ vấn đề khó khăn nào.
- Ông
không có cách nào giúp tôi đâu! Ông thấy không? Trên thế gian đầy dẫy những
hoàn cảnh không bình đẳng, người giàu kẻ nghèo cách biệt một trời một vực! Tôi
là một kẻ nghèo mạt rệp, suốt đời chịu khổ, và cũng vì cái nghèo đã đem đến cho
tôi quá nhiều đau khổ nên hiện giờ tôi không còn muốn sống làm gì trên cõi đời
này nữa!
Nói xong
mấy lời ấy thì thiếu phụ vật vã lăn lộn như có ý muốn liều mình. Tôn giả hoảng
hốt, vội nhanh chân đứng chận trước mặt thiếu phụ, rồi thương xót an ủi:
- Thưa bà!
Xin bà đừng quá thất vọng như vậy! Bà hãy bình tâm nhìn lại thử xem, trên đời
này người nghèo nhiều lắm chứ đâu phải chỉ có một mình bà! Lại nữa, người nghèo
không hẳn là bất hạnh, mà người giàu cũng không hẳn là có hạnh phúc. Bà thấy
không! Có những người giàu có, nhà cao cửa rộng, ruộng đất thênh thang, kẻ ăn
người ở đầy nhà, nhưng họ hàng ngày cứ bị các tính xấu như tham lam, sân hận,
ganh ghét giày vò, đó mới là đau khổ, đó mới là bất hạnh. Cho nên làm người,
chỉ cần có được cuộc sống bình an là tốt nhất, còn cái nghèo đâu đáng để cho ta
đau buồn!
- Bởi vì
ông là một vị sa môn nên cứ dửng dưng với sự thế, chứ kẻ tục như tôi thì đâu
được như vậy. Ông biết không? Tôi nguyên là kẻ nô lệ của một nhà đại phú hào ở
vùng này. Quanh năm suốt tháng tôi chỉ biết làm nô dịch cho người, không có một
chút thì giờ rảnh rỗi nào, thế mà cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, lại còn bị
người chủ tham tàn bạo ác, hở một chút là mắng chửi đánh đập, khiến cho bọn tôi
tớ chúng tôi, muốn sống cũng không được mà muốn chết cũng không xong! Tôi nghĩ,
sở dĩ tôi bị hành hạ như vậy là chỉ vì cái nghèo mà ra, sao ông lại bảo cái
nghèo không đáng để làm cho người ta đau khổ?
- Thôi thì
cứ cho là bà có lý, nhưng dù sao thì tôi cũng khuyên bà đừng đau buồn nữa. Tôi
sẽ chỉ cho bà cách thức chẳng những thoát được cái nghèo mà còn phát tài nữa.
Nghe vậy,
thiếu phụ lật đật lau nước mắt, hỏi dồn:
- Cách gì,
thưa đại đức?
- Giản dị
lắm! Bà đã bị cái nghèo làm cho đau khổ, sao bà không đem cái nghèo ấy bán cho
người khác đi?
- Đại đức
nói đùa sao chứ! Cái nghèo mà bán được thì hóa ra trên đời này chẳng còn ai
nghèo cả? Vả lại, có ai mà lại chịu mua cái nghèo!
- Tôi chịu
mua, bà hãy bán cho tôi đi!
- Cái
nghèo lại có thể bán được, và cũng có người như đại đức chịu mua, nhưng rất
tiếc là tôi không biết bán nghèo bằng cách nào!
- Bằng
cách bố thí, thưa bà! Bà nên biết rằng, sự giàu nghèo của mọi người đều có nguyên
nhân. Sở dĩ người ta nghèo là vì kiếp trước người ta tham lam keo kiệt, không
biết bố thí và tu phước. Sở dĩ người ta giàu có là vì kiếp trước người ta biết
bố thí và tu phước. Cho nên, bố thí và tu phước là cách tốt nhất để bán nghèo
mua giàu.
Nghe mấy
lời khai thị của tôn giả, thiếu phụ bỗng cảm thấy như tâm trí mình vừa được
khai sáng, dù vậy, bà vẫn còn có điều thắc mắc:
- Thưa đại
đức! Bây giờ thì con thấy tâm trí con đã được sáng tỏ. Con hiểu được lời dạy
của đại đức rồi, nhưng con vốn dĩ rất nghèo, không có bất cứ vật gì gọi là của
riêng; ngay cả cái vò nước này cũng là của người chủ tham lam độc ác ấy, con
đâu biết lấy gì để cúng dường cho đại đức!
Ca Chiên
Diên đưa cái bình bát của mình ra trước mặt thiếu phụ:
- Không
nhất thiết phải có tiền bạc hay của cải mới bố thí được. Mỗi khi thấy người
khác bố thí mà mình khởi niệm hoan hỷ, đó cũng là bố thí rồi. Hiện giờ bà có
thể trút nước trong cái vò bà đang có sang bình bát này cho tôi. Thế tức là bà
bố thí cho tôi đó!
Tới đây
thì thiếu phụ hoàn toàn tỉnh ngộ. Từ đó bà nguyện luôn luôn y theo lời dạy của
tôn giả mà thực hành, và không còn thấy bị đau khổ vì cảnh nghèo nữa.» (5)
Thưa quý vị, làm sao một vị sa môn đi chân đất, ôm
bình bát khất thực, dù trí tuệ siêu việt như thế nào đi nữa, lại có thể chuyển
hóa một cấu trúc xã hội bất công chằng chịt từ trên xuống dưới trùm phủ cả ngàn
năm rồi? Và người đàn bàn bất hạnh này chỉ là nạn nhân của cấu trúc xã hội bất
công đó. Nhưng chẳng lẽ thấy chết, thấy người ta khổ mà không cứu? Nhưng cứu
làm sao đây? Do sự linh hoạt và minh mẫn khác thường, Tôn Giả đã nảy ra ý nghĩ «mua nghèo» tức rước lấy cái nghèo cho
người đàn bà bất hạnh. Có thể đề nghị này đã làm cho người đàn bà phì cười.
Nhưng cũng nhờ cái tức cười đó mà tâm trí bà bừng sáng, như nở tâm hoa và một
thứ ánh sáng chiếu rọi vào đầu óc và chuyển hóa tâm thức. Bà không còn cảm thấy
nghèo hèn và khốn khổ nữa: Một chuyển hóa tâm thức trong hòa bình, không làm
khổ mình và khổ người, không cần sự trợ lực hay quyền phép của thần linh.
d) Đạo Phật không dùng quyền lợi vật chất trước mắt,
cũng như ảo tưởng về một cuộc sống bất tử để dụ dỗ con người. Những người đi
theo Phật đều vứt bỏ quyền lợi, danh vọng tột đỉnh của thế gian như bao bậc vua
chúa, đại thần, tỉ phú, những nhà tiên tri, các vị Bà-la-môn tăm tiếng thời Đức
Phật còn tại thế. Theo Phật hay theo Đạo Phật không phải để được thăng quan
tiến chức, đặc quyền đặc lợi kinh tế, ăn trên ngồi trước, hoặc là cái mộc che,
cái vỏ đạo đức để vênh vang trong xã hội. Đạo Phật lại càng không phải là cái «mode»hay phong trào để theo. Mode hay
phong trào giống như kiểu cọ đầu tóc, quần áo, vẽ môi vẽ mắt ồn ào đó rồi quăng
bỏ đó. Theo Phật hay theo Đạo Phật là mong muốn trở thành Toàn Chân, Toàn
Thiện, Toàn Mỹ, bơi lội trong biển Trí Tuệ, tắm mát trong suối Từ Bi và rong
chơi trong vườn Giải Thoát, là người nhưng biết thương người và bình đẳng với
muôn loài. Đạo Phật là như thế đó.
e) Đạo Phật không dựa vào lời sấm truyền, huyền
thoại, lời tiên tri để xây dựng giáo lý của mình. Trong suốt cuộc đời hành đạo,
Đức Phật không hề để lại một lời tiên tri, phỏng đoán nào về vận mệnh của con
người và trái đất…mà Đức Phật chỉ nói về nhân duyên và pháp vô thường của vạn
hữu, thể hiện qua bốn giai đoạn Thành, Trụ, Hoại, Diệt mà ai cũng có thể chứng
ngộ và thấy được qua bao ngàn năm. Tương lai của trái đất tốt xấu thế nào xin
để cho các khoa học gia, các nhà bác học cho ý kiến. Mới đây Stephen Hawking -
lý thuyết gia lừng danh về vật lý của Anh đã tuyên bố trong cuốn sách mới của
ông là Thượng Đế không sáng tạo ra vũ trụ mà «Sự Nổ Lớn» (Big Bang) là hậu quả tất yếu của định luật vật lý. Nếu
năm xưa Đức Phật nói rằng vũ trụ này do Thượng Đế (Brahma) tạo lập, ngày nay
chắc chắn giáo lý của Đức Phật bị suy giảm nghiêm trọng.
g) Đạo Phật không dùng bạo lực, giết hại, kỳ thị để
ép buộc con người đi theo. Khi tôn thờ Thần Linh thì có yêu ghét, cao thấp,
sang hèn, đúng sai, phẫn nộ, trừng phạt…do đó có đe dọa, ra oai, trả thù, đàn
áp, giết hại. Khi dùng trí tuệ chiếu vào thì vạn pháp « bất bần bất phú, bất cao bất đê, bất phàm bất thánh, bất ái bất ố, bất
tịnh bất cấu, bất tăng bất giảm..» khiến Trí Tuệ lắng yên và Tâm Đại Bi
hiển lộ. Chúng ta hãy đọc một giai thoại hoằng pháp của Tôn Giả Ca Chiên Diên:
«Một lần nọ, khi đức Phật ngự tại Tịnh Xá Kỳ
Viên (Jetavana), Ca Chiên Diên đã một mình vượt rừng rậm đi về hướng Tây, đến
du hóa ở Vương Quốc Ma Du La. Khi đến nơi, trước hết tôn giả tìm hiểu dân tình
và học hỏi phong tục, tập quán cùng cách thức sinh hoạt của dân địa phương. Sau
đó tôn giả mới tìm vào kinh thành để yết kiến quốc vương. Trông thấy tôn giả,
quốc vương hỏi:
- Đại đức!
Trẫm nghe nói đại đức vốn thuộc dòng giống Bà La Môn cao quí, nhưng lại đi qui
y làm đồ đệ của Sa Môn Cồ Đàm vốn thuộc dòng giống Sát Đế Lợi; như vậy chẳng
hóa ra là đại đức đã tự hạ thấp mình quá sao?
- Thưa đại
vương! Làm đệ tử Phật, chẳng những tôi không cảm thấy tự hạ thấp mình, trái lại
đó là điều vinh quang cùng tột của đời tôi.
- Lạ lùng
thật! Bỏ đi cái chủng tộc thanh tịnh sinh ra từ miệng Phạm Thiên của mình để
làm đệ tử của ông Phật dòng Sát Đế Lợi thì có ai mà hiểu nổi!
Dù vị quốc
vương tỏ rõ thái độ kinh rẻ như vậy, nhưng tôn giả không lấy thế làm khó chịu,
vẫn ôn hòa đáp lại:
- Thưa đại
vương! Trước đây, khi còn là một đạo sĩ Bà La Môn, tôi cũng đã từng có cái nhìn
giống hệt như đại vương vậy, nhưng từ khi nghe được những lời chỉ dạy của Đức
Phật, tôi mới biết là mình đã có những nhận thức đầy sai lầm. Xã hội phân ra có
bốn giai cấp khác nhau chẳng qua là vì có các chứng nghiệp khác nhau, đại khái
như tôn giáo, chính trị, thương nghiệp, công nông v.v... Đó chỉ là vấn đề phân
công làm việc, tự chúng không có cao thấp, sang hèn. Nếu y cứ vào đó để lập
thành các giai cấp cao thấp, phân chia chủng tộc sang hèn thì hoàn toàn là
những lợi dụng vô lý và phi pháp. Bất cứ ở giới nào cũng có người tốt kẻ xấu.
Ngày nay, ngay trong dòng Bà La Môn cũng đầy dẫy những phần tử làm nhiều việc
xấu xa như tà dâm, giết người, và hầu hết đều là những người bảo thủ, tà kiến.
Vậy có thể bảo đó là những người tôn quí bậc nhất hay sao. Bởi thế, sự tôn quí
hay thấp hèn của con người không phải do chủng tộc hay giai cấp cao thấp sinh
ra. Bất luận là ở chủng tộc nào, hễ ai biết làm việc tốt, có công phu tu học,
có giác ngộ và chứng quả thì đều là người trong sạch, cao thượng, đáng tôn quí.
Quốc vương
nghe xong mấy lời này thì bừng tỉnh ngộ, tự nói với mình: “Đúng rồi, ta thật
quá sai lầm! Bao nhiêu nhà tù trong nước từ trước đến giờ chỉ dành để giam cầm
hạng Thủ Đà La, còn hạng Bà La Môn phạm tội thì không hề hấn gì cả. Thật chẳng
lấy làm lạ, tiếng oán than dẫy đầy trong dân chúng!»
Lòng hối cải đã lộ rõ trên nét mặt quốc vương. Thấy
thế, tôn giả thuyết phục thêm:
- Thưa đại vương! Vì vậy mà đại vương nên tin phụng
và thực hành chánh pháp. Phật là bậc đại giác ngộ, là bậc chí tôn trong đời.
Chúng ta qui y làm đệ tử của Người để tìm thấy con đường tự do giải thoát. Đó
là hạnh phúc và vinh quang tột của đời chúng ta.” (6)
Sáng suốt và linh hoạt thay lời giải đáp của Tôn Giả
Ca Chiên Diên. Chính sự phân tích có tính khách quan và hợp lý đó đã đem lại
công lý, bình đẳng cho Vương Quốc Ma Du La và xác định rõ một khuôn thước thẩm
định giá trị của con người qua phẩm hạnh đạo đức, qua những gì tốt lành cống hiến
cho đời…vẫn còn xác quyết cho tới ngày hôm nay.
h) Theo Đạo Phật, tôn giáo là nhằm giải thóat tâm
linh cho con người, san bằng bất công xã hội, giải trừ giai cấp. Tôn giáo không
phải là một nghề nghiệp sinh sống, không phải là một chức vụ để trả lương,
không phải là một vị thế để hưởng thụ. Tu sĩ phải là biểu tượng sống động của
giáo lý cao thượng. Tu sĩ không phải là một đẳng cấp siêu vượt trong xã hội. Tu
sĩ phạm giới ngoại trừ sự trừng phạt của giáo đoàn (nay là giáo hội), nếu phạm
tội, phải chịu sự chi phối của luật pháp không một miễn trừ nào. Nếu người đời
xâm phạm tiết hạnh, hãm hiếp phụ nữ trẻ em, bị trừng phạt như thế nào thì tu sĩ cũng bị trừng
phạt như thế. Sở dĩ tu sĩ được cúng dường và kính trọng là vì phẩm hạnh chứ
không phải vì địa vị, phẩm trật trong giáo hội. Tu sĩ chân chính không thể cười
nói nhởn nhơ, ăn mặc diêm dúa, nhảy múa, hớn hở bên rượu thịt…bởi vì những cái
đó thuộc về thế tục, không phải thánh đạo để mọi người sùng bái, quỳ lạy, dựng
tháp miếu để kính ngưỡng. Chúng ta hãy nghe một đoạn đối đáp của Tôn Giả Ca
Chiên Diên với người bạn Lỗ Ê Giá – một trưởng giả của dòng Bà La Môn:
«Này người bạn
hiền, xin hãy nghe lời tôi nói! Tín ngưỡng và sự tu hành của chúng ta là nhằm
mục đích giải thoát khỏi vòng sinh tử, để cho cuộc sống đạt được an lạc, tự
tại. Chúng ta đừng xem đó là một thứ nghề nghiệp để sinh sống. Hiện nay, những
tu sĩ Bà La Môn lìa bỏ gia đình để sống theo nếp sống phạm hạnh của người tu
hành chân chính phỏng có là bao! Mà phần đông họ đều chỉ có cái hình tướng trá
ngụy ở bề ngoài, cúng lễ tế tự cho người giống như việc kinh doanh để sinh
nhai, lấy tôn giáo làm cái chiêu bài để tranh dành đoạt lợi, cốt thỏa mãn cái
tư dục của mình; thật là đáng buồn! Tu sĩ Bà La Môn ngày nay đều lo tìm những
thứ gì ở ngoài Tâm, cũng chẳng phải mong cầu phước báo ở cõi Trời hay cõi
Người, mà chỉ toàn nói hươu nói vượn về những hiện tượng này nọ của vũ trụ, nào
có mấy người biết chính mình là ai!» (7)
i) Sau hết, Đạo Phật là đạo duy nhất hoan nghênh mọi
sự cật vấn, tranh luận mà không sợ bị sa hỏa ngục hay can tội «phạm thánh». Phạm trù của lý trí là phạm
trù cần tranh luận, bàn cãi cho ra lẽ. Nếu vấn đề đã thuộc về lý trí thì con
người có thể hội, có thể hiểu và lý giải được. Phạm trù của lý trí không có
ngằn mé, không cấm kỵ, không biên giới, không phân biệt tuổi tác, vị thế, màu
da, chủng tộc. Chính vì tôn trọng trí tuệ cho nên một trong ba lời nguyện mà
chư tăng/ni và Phật tử đọc tụng hằng ngày có câu:
Tự quy ý Pháp
Đương nguyện chúng sinh
Thấu rõ kinh tạng
Trí tuệ như biển
Như vậy theo tinh thần của Phật Giáo, đọc tụng,
nghiên cứu kinh điển là để mở mang trí tuệ rộng lớn như biển cả, chứ kinh điển
Phật Giáo không phải là một thứ bùa mê làm lu mờ trí tuệ, lú lẫn con người.
Còn phạm trù thần linh thì không có tranh luận, lý
giải mà chỉ là sự tuân phục và tin theo - dù rất phi lý và phi trí tuệ. Hễ
không tin thì phải sa hỏa ngục. Trong Đạo Phật, không hề có lời hăm dọa nào
buộc tín đồ phải tuân theo lời Phật dạy. Lời Phật dạy giống như một viên thuốc
trị bệnh, không uống thì không hết bệnh, chỉ có thế. Đức Phật luôn luôn nhắn
nhủ hàng đệ tử cùng ngoại đạo đến vấn hỏi là phải suy nghĩ cho thật kỹ những gì
Phật nói. Nếu những điều đó tốt lành cho mình, cho người thì mới tuân theo chứ
đừng vội tin một cách mù quáng. Trong những giờ phút cuối cùng trước khi Đức
Thế Tôn nhập diệt tại rừng Sa La Song Thụ, dù sức khỏe của Ngài rất suy yếu
nhưng Ngài vẫn dành nhưng giây phút cuối để cho các hàng đệ tử thưa thỉnh nhiều
vấn đề chưa hiểu rõ hoặc còn hồ nghi. Thậm chí có rất nhiều vị bồ tát đã vặn hỏi,
cật vấn, đặt ngược vấn đề với Phật mà Phật vẫn vui vẻ giải đáp thỏa đáng. Hãy
cứ xem Kinh Đại Bát Niết Bàn thì rõ.
Từ những nhận định trên chúng ta có thể kết luận rằng
Đạo Phật được xây dựng trên nền tảng Trí Tuệ và Phật Giáo là đạo của Trí Tuệ.
Cũng giống như Mặt Trời chính là ánh sáng. Nền tảng Trí Tuệ chính là sinh mệnh
của Phật Giáo. Khi Mặt Trời tắt thì ánh sánh không còn. Xa lìa trí tuệ, bám víu
vào hiện tượng trăng sao, mưa gió của trời đất, khấn nguyện phép mầu, van vái
Thần Linh, mê hoặc bởi những lời sấm truyền vu vơ…hướng ngoại mà không hướng
nội… là giết chết Phật Giáo trên tự thân của nó. Thế nhưng nói Trí Tuệ thì phải
hiểu đó là Trí Tuệ Rốt Ráo, Trí Tuệ Bát Nhã, Trí Vô Sai Biệt hay Đại Viên Cảnh
Trí. Khi đạt tới loại Trí Tuệ này rồi thì Tâm Đại Bi hiển lộ. Trong Đạo Phật,
Trí Tuệ và Từ Bi như hình với bóng. Bi là Trí mà Trí cũng là Bi. Mất Trí Tuệ
thì mất Đại Bi. Mất Đại Bi thì cũng mất Trí Tuệ.
Vậy thì bạn ơi,
Hãy tôn thờ trí tuệ của con người
Nó như ngọn đuốc soi đường
Nó như bình minh trong đêm tối
Nó là nền hòa bình trong tương
lai của nhân loại
Nó là nơi mà chúng ta có thể kết tình huynh đệ
Vậy hãy tin nơi sáng suốt của chính mình
Sự sáng suốt do nhận thức những gì chung quanh ta
Do cuộc sống này nảy sinh
Do kinh nghiệm học hỏi từ quá khứ
Từ những bậc thày giác ngộ (8)
Đừng tin những gì ở thần quyền
Qua sự diễn dịch của tầng lớp trung gian
Đừng tin những gì nơi thần linh, ma quỷ
Đừng vội tin những gì người ta nói
Đừng vội tin những lời truyền tụng vu vơ.
Đào Văn Bình
(Trích Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống và Tâm Linh xb
năm 2017 do Amazon phát hành)
_________________________
(1) Phật Học Phổ Thông
(2), (3),(4), (5),(6) &(7) Bài «Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật» đăng trên
mạng lưới Hoằng Pháp Hà Nội
(8) Đức Phật là một vị đã giác ngộ và sau này tất cả
những ai liễu ngộ được chân lý của Đức Phật và tin theo cũng đều là các bậc
giác ngộ
Comments
Post a Comment