Năm Hình Ảnh Trước Cửa Tử
Năm
Hình Ảnh Trước Cửa Tử [1]
Hòa
Thượng Rastrapal
Hải Trần dịch Việt
Hải Trần dịch Việt
Vài điều sơ lược về tác giả
Hòa Thượng Rastrapal hiện
đang dạy thiền và là vị trụ trì tại Trung TâmThiền Học Quốc Tế (International
Meditation Centre) tại Bồ đề Đạo tràng (Bodh Gaya), thuộc Ấn độ.
Lời Tựa
Cuộc sống sau cửa Tử và sự
hiện hữu của không gian 4 chiều [2] là 2 nan đề đã làm điên đầu bao triết gia, tâm
lý gia, và các học giả về bản chất con người. Có nhiều quan điểm khác biệt đã
được nêu lên, nhưng tựu trung, tất cả đồng ý rằng chúng ta đều phải chết. Thêm
vào đó, người hấp hối thường có những cử chỉ lạ lùng như thể họ đang sống trong
một thế giới nào khác mà chúng ta không cảm nhận được. Lúc đó, dường như họ
đang sống trong ảo tưởng. Thế nhưng, nếu quan sát một cách tường tận, chúng ta
có thể sẽ thấy rằng những «ảo tưởng»
đó tuy khó tin nhưng có thật.
Nhiều năm trước đây, là một
nhà sư, tôi chứng thực được điều đó khi đứng cạnh giường của một người đang hấp
hối. Kinh nghiệm này đã chấn động tinh thần tôi đến độ sau đó tôi phải bỏ công
tìm tòi học hỏi thêm các khái niệm về chư Thiên trong Kinh Tam Tạng Phạn ngữ (Pali).
Qua lời thỉnh cầu của chư Phật tử bốn phương, tôi xin viết lại câu chuyện trên
với hy vọng rằng câu chuyện này sẽ trả lời được phần nào các thắc mắc đó. Nơi
đây, tôi xin cám ơn sự khích lệ và đóng góp vào cuốn sách nhỏ này của các Ngài
Thiền sư Munindra, Tiến sĩ Arabinda Barua, Giáo sư SunilBarua, và Bà Krishna
Barua.
Tỳ Kheo Rastrapal
---o0o---
Câu chuyện tôi sắp kể ra
đây xảy ra vào năm 1957. Lúc đó tôi thọ giới tỳ kheo được 4 năm. Tôi hoan hỉ
hăng say học Phật Pháp. Trong đó, có câu chuyện về Phật tử Dhammika trong quyển
Chú giải Kinh Pháp Cú làm tôi quan tâm hơn cả.
Cư sĩ Dhammika là một Phật
tử tín tâm thời Đức Phật còn tại thế. Toàn thể gia quyến ông thực hành Phật
Pháp rất nghiêm túc. Khi thọ bệnh, và nhận thấy mình sắp từ giã cõi đời, ông
thỉnh cầu Đức Phật cho phép Tăng chúng đến tụng kinh bên giường bệnh. Lời thỉnh
cầu của ông được Đức Phật chấp nhận. Ngài cử một số chư Tăng đến gia thất ông, và
chư Tăng bắt đầu trì tụng Kinh Tứ Niệm Xứ.
Khi chư Tăng đang tụng kinh,
thình lình ông la lớn: «Ngừng lại! Ngừng
lại! ». Nghe vậy, chư Tăng rất lấy làm ngạc nhiện. Vì nghĩ rằng ông
Dhammika yêu cầu đừng tụng kinh nữa, chư Tăng bèn ngưng tụng và trở về tinh xá
trình với Đức Phật.
Đức Phật hỏi sao chư Tăng
về sớm vậy. Chư Tăng thưa rằng đó là vì cư sĩ Dhammika yêu cầu ngưng, và do đó
chư Tăng quay trở về tuy chưa tụng hết bài kinh. Đức Phật nói rằng mọi người đã
hiểu lầm ý người bệnh. Ngài giảng giải thêm rằng ý của ông ta hoàn toàn khác
hẳn. Ông muốn chư Thiên đang đem xe đến đón ông về thiên giới hãy ngừng lại, đừng
đưa ông đi vội, vì ông đang nghe kinh. Ông ta không hề có ý yêu cầu chư Tăng
ngưng tụng kinh.
Trong Tam Tạng Kinh Điển và
trong các sách Chú Giải, tôi cũng từng đọc được nhiều câu chuyện về sự xuất
hiện của chư Thiên và ngạ quỷ trong giờ phút lâm chung, tùy thuộc vào nghiệp
quả đã làm trong suốt cuộc đời của người hấp hối. Tôi rất thắc mắc, vì những
câu chuyện này đi ngược lại với đường lối tôi lý luận lúc đó. Tôi tìm đến Hòa
Thượng Jnanishwar, một học giả uyên thâm về Phật học trụ trì tại một ngôi chùa
nổi tiếng ở vùng Unainpura tại quốc gia Bangladesh, và trình lên Ngài nỗi thắc
mắc của mình. Ngài bèn niệm bài kệ sau:
«Niraye aggikkhandho ca petalokanca andhakam, tiracchanayoninca mamsakkhandhanca
manusam, vimanam devalokamhi nimittam panca dissare. »
Có nghĩa là:
«Ai bị đọa xuống Địa Ngục sẽ thấy lửa; ai bị đọa làm ngạ quỷ sẽ thấy
xung quanh mình tối tăm; ai sinh làm thú vật sẽ thấy rừng rú, súc vật và muông
thú; ai sinh làm người sẽ thấy thân nhân đã khuất; và ai sinh lên cõi Trời sẽ
thấy cung điện trên Thiên giới.
Thường thường, 5 hình ảnh này sẽ hiện ra cho người hấp hối. » [3]
Ngài Hòa Thượng đã cố công
giải thích câu kệ trên cho tôi rất cặn kẽ, nhưng tôi vẫn không đồng ý cho lắm. Phải
có một kinh nghiệm thực chứng nào đó họa may mới có thể thuyết phục tôi hoàn
toàn tin tưởng vào câu kệ trên.
-oOo-
Sau đó không lâu, tôi đã
chứng thực được điều mình đang mong mỏi. Lúc ấy, tôi đang ở tại một ngôi chùa
trong làng Tekota thuộc hải cảng Chittagong , nằm
trong quốc gia Bangladesh .
Một ngày kia, khi đi học về từ ngôi trường đại học cách chùa khoảng năm dặm, tôi
cảm thấy rất mệt mỏi và muốn lên giường nằm nghỉ chốc lát. Bỗng đâu, có một cư
sĩ ở làng bên đến chùa nhờ tôi đi thăm người anh rể tên là ông Abinash Chandra
Chowdhury, vì ông này đau nặng và đang cơn hấp hối. Ông Chowdhury được năm mươi
sáu tuổi, và là một Phật tử tín tâm, ai cũng biết đến tâm đạo của ông ta. Tôi
đứng dậy và đi theo vị cư sĩ đến nhà người anh rể của ông ấy.
Đến nơi, tôi thấy nhà ông
đã đông đủ bạn bè thân quyến. Tất cả đều nhường lối cho tôi tiến đến gần người
hấp hối. Ông ta đang nằm trên một tấm nệm trải trên sàn. Lúc ấy khoảng 8: 30
tối. Có người mang ghế lại mời tôi ngồi. Cả nhà trở nên im lặng khi tôi sửa soạn
tụng kinh. Ai nấy đều hồi hộp vì trước đó, tôi đã từng ngỏ ý trong các bài
thuyết pháp rằng tôi ước ao được kiểm chứng lại 5 hình ảnh thường hiện ra trước
giây phút lìa đời của người sắp chết. Giờ đây, giây phút quan trọng được mong
chờ này đã đến.
Tôi bắt đầu tụng kinh. Sau
khi tụng xong vài bài, tôi nghe người hấp hối thì thào một cách thành kính
những chữ «Phật - Pháp - Tăng, Vô thường
- Đau khổ - Vô ngã» và «Từ - Bi - Hỷ
- Xả». Thế rồi, tôi nhận thấy ông ấy suy nhược hẳn đi. Để nhìn ông ta cho
rõ, ngõ hầu chứng minh câu kệ về 5 hình ảnh nọ, tôi yêu cầu mọi người cho tôi
ngồi xuống sàn, cạnh người sắp quá vãng. Mọi người liền tuân theo ý tôi ngay.
Người hấp hối nằm nghiêng
về phía tay trái đối diện tôi. Tôi đặt bàn tay phải của mình lên cánh tay phải
của ông ta và hỏi thăm sức khỏe. Ông trả lời rằng giây phút lìa đời đã đến, và
không còn hy vọng gì sống thêm nữa. Tôi cố gắng an ủi ông rằng ông mới có năm
mươi sáu tuổi và không thể nào chết sớm như vậy. Suốt đời ông đã làm rất nhiều
việc thiện, nêu lên bao nhiêu gương sáng cho mọi người trong làng, cho nên cuộc
đời ông không thể bị vắn số như vậy được.
Thế rồi tôi hỏi ông có muốn
thọ trì Ngũ Giới và nghe thêm kinh không. Ông ta bằng lòng. Sau khi cho ông thọ
giới, tôi tụng kinh và nhận thấy ông ta lắng nghe với tất cả lòng thành kính. Khi
ngừng tụng, tôi muốn biết ông có thấy hình ảnh nào không. Suốt thời gian tôi
ngồi cạnh, cặp mắt ông ta nhắm nghiền. Cứ mỗi khoảng thời gian ngắn là tôi nhắc
lại câu hỏi của mình. Ông ta cho biết rằng ông không nhìn thấy gì cả.
Khoảng 11: 30 tối, đôi môi
ông bắt đầu mấp máy. Những người đứng cạnh giường nhận ra rằng ông đang nói
thấy cây Bồ đề tại Bồ đề Đạo tràng, nơi Đức Phật thành đạo. Có lẽ ông ta thấy
cây Bồ đề vì đang nhớ lại chuyến hành hương của mình tại Bồ đề Đạo tràng. Tôi
hỏi ông còn thấy gì khác. Ông nói một cách ngạc nhiên rằng hai vị sinh thành ra
ông cũng ở đó và đang dâng hoa lên Vajrasana (Kim Cương Tọa) dưới cội cây Bồ đề.
Ông ta nói như thế đến 2 lần. Tôi nhờ ông hỏi song thân ông có muốn thọ Ngũ
Giới không. Ông ta trả lời có và 2 người đang chắp tay nhận giới.
Sau khi truyền Ngũ Giới cho
song thân ông, tôi lại hỏi ông xem hai vị ấy có muốn nghe kinh không. Khi được
trả lời rằng có, tôi bèn tụng bài Từ Bi Kinh. Tôi cảm thấy rất kích động với
những diễn tiến vào lúc đó, vì chúng đã xảy ra giống câu kệ về 5 hình ảnh nọ. Những
người xung quanh cũng bị kích động không kém vì họ đang chứng kiến một sự kiện
không thể ngờ.
Theo như lời kệ, tôi hiểu
rõ ràng rằng hình ảnh cha mẹ quá vãng cho tôi biết ông sẽ tái sinh làm người và
trong điều kiện sống rất cao đẹp, vì có hình ảnh của cây Bồ đề cùng với song
đường. Thế nhưng, tôi cảm thấy với đức tin trong sạch, ông xứng đáng lên cõi
cao hơn. Tôi tiếp tục hỏi ông còn thấy gì nữa.
Một lúc sau, tôi nhận thấy
ông ấy có sự thay đổi. Hình như ông ta bắt đầu lo lắng cho cuộc sống trần thế
và yêu cầu họ hàng giải nợ cho ông. Tôi hỏi ông thấy gì. Ông trả lời một cách
yếu ớt rằng ông thấy một bộ tóc dài. Lúc ấy khoảng 1: 40 sáng. Tôi hỏi: «Ông có thấy mắt không? » thì được trả
lời rằng: «Không, vì bộ tóc đen phủ kín
từ đầu đến gót. »
Tôi không biết hình ảnh ma
quái này có nghĩa gì, nhưng cũng đoán chừng rằng nếu ông ta chết vào lúc này
thì sẽ tái sinh vào một cảnh giới thấp, nên tôi bắt đầu tụng kinh để xua đuổi
con ma. Quả nhiên công hiệu, vì khi tôi hỏi con ma còn đó không, ông nói con ma
đã biến mất. Ít lâu sau, khi tôi nhờ Hòa Thượng Jnanishwar và Hòa Thượng
Silalankara giải thích, cả 2 đều nói rằng nếu qua đời vào lúc bấy giờ ông ta sẽ
tái sinh làm ngạ quỷ.
Hình như ông vẫn còn quyến
luyến sự sống trên cõi thế gian vì ông nài nỉ thân nhân cất giữ tấm nệm dưới
giường ông nằm cho người con trai duy nhất mang tên là Sugata Bikash Chowdhury.
Người con trai này còn kẹt ở xa, tận tỉnh Durgapur
thuộc Ấn độ. Ông không muốn tấm nệm bị hỏa thiêu theo xác ông theo tục lệ của
nhiều Phật tử ở hải cảng Chittagong thuộc quốc
gia Bangladesh .
Sau đó, ông bị kiệt sức rất nhiều.
Tôi hỏi ông còn thấy những
gì. Ông ta trả lời rằng ông thấy 2 con chim bồ câu đen. Tôi hiểu tức thì rằng
đó là hình ảnh của thế giới loài thú, nơi ông sẽ tái sinh. Lúc này đã 2: 00 giờ
sáng. Tôi không muốn ông thọ sinh làm kiếp thú nên tiếp tục tụng kinh. Khi tụng
xong vài bài, tôi lại hỏi ông thấy gì. Lần này, ông trả lời rằng không thấy gì
cả.
Tôi tiếp tục tụng kinh. Một
lúc sau, tôi hỏi ông có thấy gì nữa không. Tôi phải nhắc lại câu hỏi nhiều lần.
Cuối cùng, ông ta nói một cách ngạc nhiên rằng ông thấy một cỗ xe từ thiên giới
đang tiến đến gần. Mặc dù biết rằng không một chướng ngại vật nào có thể ngăn
cản được cỗ xe đó, nhưng vì lòng tôn kính đối với chư Thiên, tôi yêu cầu thân
quyến của người hấp hối đứng xa ra, nhường chỗ cho cỗ xe đậu lại. Xong, tôi hỏi
ông cỗ xe đó cách xa ông bao nhiêu. Ông đưa tay ra dấu cho biết cỗ xe đó đang ở
sát cạnh giường.
Khi được hỏi có thấy ai
trong xe không, ông ta trả lời rằng có những vị thiên nam và thiên nữ trong xe.
Tôi nhờ ông hỏi ý chư Thiên có muốn thọ Ngũ Giới không, vì tôi được biết qua
kinh điển rằng chư Thiên rất vâng lời và kính trọng chư Tăng và các vị cư sĩ
tại gia có Đạo tâm.
Khi được trả lời rằng có, tôi
liền làm lễ truyền Ngũ Giới cho chư Thiên và hỏi các Ngài có muốn nghe Từ Bi
Kinh không. Khi biết chư Thiên đồng ý, tôi bèn tụng hết cả bài kinh. Tôi lại
hỏi chư Thiên có muốn nghe Hạnh Phúc Kinh (Mangala Sutta) không, và tôi tụng
bài này khi chư Thiên tỏ ý bằng lòng.
Khi tôi hỏi các Ngài có
muốn nghe thêm bài Linh Bảo Kinh (RatanaSutta) không, thì người hấp hối xua tay
ra dấu rằng chư Thiên bảo không còn thì giờ nghe kinh nữa. Sau đó, ông ta cho
biết chư Thiên muốn tôi trở về chùa.
Tôi hiểu rằng chư Thiên
nóng lòng muốn rước người bệnh lên thiên giới, nhưng tôi tìm cách ngăn cản để
kéo dài sự sống cho ông ta trên mặt đất này. Tôi nhờ ông mời chư Thiên lui gót
vì chưa đến lúc ông ấy chết. Tôi lý luận rằng ông ta mới có năm mươi sáu tuổi, cho
nên tôi dám chắc rằng chư Thiên đã lầm lẫn. Tất cả mọi người có mặt và cả tôi
nữa sẵn lòng hồi hướng phước báu của mình đến các Ngài để đổi lấy sự sống cho
ông ta.
Tôi lại hỏi người hấp hối
còn thấy hình ảnh gì nữa không. Ông trả lời rằng song thân ông còn quanh quẩn
bên cây Bồ đề. Như vậy, chỉ có nghĩa là tâm ông còn vướng bận cảnh trần rất
nhiều và ông sẽ tái sinh làm người. Một lần nữa, tôi đề nghị tất cả chúng tôi
hồi hướng phước báu đến cha mẹ ông đã quá vãng, và sau khi thọ hưởng rồi, hai
ông bà phải ra đi như chư Thiên đã ra đi vậy.
Theo dấu hiệu của người hấp
hối thì hình như người cha đồng ý, nhưng người mẹ thì không. Tôi tỏ vẻ nghiêm
cẩn với bà mẹ vì chư Thiên đã đồng ý với tôi thì 2 người không nên từ chối. Tôi
nói rằng nếu 2 người vẫn có hành động như thế, e rằng sẽ gây ra các hậu quả
không tốt cho 2 người mà thôi. Tôi phải nói mãi họ mới chịu nghe. Cuối cùng, cả
2 biến mất.
Bây giờ thì không còn bóng
hình nào lảng vảng trong tâm người bệnh nữa. Trông ông ta thay đổi hẳn. Ông ta
hít một hơi dài và có nhiều sức sống. Khi có người cầm đèn đến gần để soi mặt
ông, ông ta nói: «Đừng lo nữa, tôi không
chết đâu. » Nhận thấy ông đã khỏe hẳn, tất cả chúng tôi đều cảm thấy nhẹ
nhõm và vui mừng.
Chúng tôi đều bị kích động
với những diễn tiến vừa qua. Lúc đó đã 5: 00 giờ sáng. Mọi người vừa trải qua
một đêm không ngủ, nhưng không ai tỏ ra mệt mỏi, vì sự kiện trên quá hấp dẫn và
thu hút. Tôi từ giã mọi người, quay trở về chùa, đi tắm, ăn sáng, và sau cùng
lên giường chợp mắt.
Khoảng 10: 30 sáng, nghe
tiếng động ngoài phòng, tôi đi ra xem chuyện gì thì thấy ông khách tối qua. Tôi
hỏi ông nguyên do trở lại chùa thì được biết ông ta đến đón tôi vì sau 5 tiếng
đồng hồ khỏe mạnh ông Chowdhury lại bị đuối sức và cái chết lại cận kề.
Tôi vội vàng theo người
khách trở lại nhà ông Chowdhury. Trên đường, tôi gặp rất nhiều người trong làng
lũ lượt kéo nhau đi cùng hướng với tôi, và khi đến nhà ông Chowdhury, tôi thấy
rất đông người đứng chật cả nhà. Đó là vì tiếng đồn về sự kiện xảy ra từ đêm
trước. Mọi người rẽ ra nhường lối cho tôi tiến đến giường bệnh.
Tôi ngồi bên cạnh người hấp
hối hỏi thăm sức khỏe. Ông ta trả lời rất yếu ớt rằng ông không sống được nữa. Tôi
khuyến khích ông và nhắc nhở ông những việc thiện ông đã làm trong đời. Lâu lâu
tôi lại hỏi ông có thấy ai không, nhưng ông ta không thấy gì cả.
Khoảng 11: 20 sáng, một cụ
lão tên là cụ Mahendra Chowdhury khoảng 86 tuổi nhớ ra giờ ăn chót trong ngày
của tôi sắp qua nên nhắc tôi độ ngọ. Tôi cương quyết từ chối vì không thể rời giường
bệnh vào lúc đó cho dù là để ăn cơm.
Câu nói của tôi làm bầu
không khí căng thẳng thêm vì ai cũng chờ đợi những diễn tiến tiếp theo tối
trước ra sao. Tôi lại hỏi người hấp hối thấy gì không. Lần này, ông ta trả lời:
«Có, chư Thiên lại đem xe đến nữa. »
Sự xuất hiện của chư Thiên
ngay sau khi tôi từ chối ăn trưa làm tôi suy nghĩ rất nhiều.
Sau này, khi tôi nhờ Hòa
Thượng Jnanishwar và Hòa Thượng Silalankara giải thích, cả 2 đều nói rằng chư
Thiên chờ tôi đi độ ngọ, để khi tôi vắng mặt là chư Thiên đón ông ta về trời
ngay. Thế nhưng vì tôi không chịu bỏ đi, nên các Ngài đành đến rước ông ta vậy.
Người bệnh cho tôi biết chư
Thiên thỉnh cầu và năn nỉ tôi trở về chùa. Khi tự hỏi tại sao, tôi bỗng hiểu sở
dĩ các Ngài ngần ngại không rước người bệnh đi khi tôi còn ở đó vì các Ngài
mang ơn tôi đã ban Ngũ Giới và tụng kinh cho các Ngài. Sau này, nhị vị Hòa
Thượng cũng nói thế.
Vì cảm thấy người bệnh
không thể trốn tránh cái chết được nữa, tôi nhờ ông thưa cùng chư Thiên rằng: «Xin chư Thiên tự nhiên rước ông ta đi, cho
dù tôi đang có mặt tại nơi đây. Tôi không phản đối nữa. Tôi rất hoan hỉ cho
phép ông ta ra đi. » Sở dĩ tôi nói vậy vì ông ta sẽ đi về thiên giới, rất
xứng đáng với các công đức ông đã làm và đó là điều tôi chân thành ao ước cho
ông. Tiếp theo, tôi yêu cầu bà vợ và thân quyến của ông nói lời giã biệt một
cách vui vẻ.
Đây là lúc mọi người sửa
soạn cuộc hành trình cuối cùng trong đời của người hấp hối. Trước khi ra đi, ông
nói: «Thôi, tôi đi dây. » Vẻ mặt ông
rất hân hoan và xán lạn.
Tôi bèn nâng đầu và vai ông,
còn người khác nắm chân. Chúng tôi đặt ông nằm ngửa cho thẳng thắn. Tôi nhỏ vài
giọt nước đường vào miệng ông. Tiếp theo, tôi đặt bàn tay phải của mình lên
ngực ông ta. Tôi cảm thấy còn rất nhiều hơi ấm. Người đang chết hình như còn
tỉnh thức và đang lẩm nhẩm những câu kinh nhật tụng.
Thế rồi, ông ta giơ bàn tay
phải lên như đang tìm kiếm một vật gì. Tôi không hiểu ông muốn gì. Có người
trong đám đông đề nghị có lẽ ông muốn sờ chân tôi như đêm trước ông đã từng làm
như vậy, vì tôi đang ngồi trên sàn cạnh ông.
Tôi đưa chân phải của mình
đến gần để ông ấy có thể đưa tay ra sờ được. Khi sờ được chân tôi xong, trông
ông có vẻ mãn nguyện. Sau đó, ông giơ bàn tay vừa đụng vào chân tôi lên trán
mình và sau cùng xuôi thẳng tay đặt bên hông.
Tôi cảm thấy hơi ấm ở ngực
ông bớt dần. Khoảng 1 hay 2 phút sau, cơ thể ông ấy giật lên và trút hơi thở
cuối cùng. Khi xác ông hoàn toàn lạnh, tôi rút tay về và nhìn quanh. Mọi người
xung quanh ngồi hay đứng đều hoan hỉ và an nhiên tự tại.
Cả nhà không một tiếng khóc.
Đó là một cuộc tiễn đưa người chết rất hay, theo đúng lời tôi căn dặn trong các
buổi thuyết giảng. Tôi từ giã mọi người và bảo thân nhân bạn bè người chết bây
giờ có thể tha hồ khóc lóc, vì vào lúc này sự thương tiếc không còn ảnh hưởng
đến người quá vãng nữa.
-oOo-
Câu chuyện trên đã đánh tan
mọi mối nghi ngờ từ trước về câu kệ diễn tả 5 hình ảnh xuất hiện trong trí
người sắp chết do Hòa Thượng Jnanishwar đọc và tôi cũng từng thấy những câu
tương tự trong kinh điển. Sau này, khi phân tích về cái chết của ông Chowdhury,
tôi nhận ra rằng mỗi giai đoạn đều có 1 hình tướng (nimitta) tương xứng với
trạng thái của Tâm (citta):
Cảnh cây Bồ đề và cha mẹ đã
khuất là kết quả của 1/ nghiệp tướng (kammanimitta). Đó là yếu tố quan trọng
trong tâm thức do thiện nghiệp gây ra. Thế nhưng, sau này, ông ta thấy người
tóc dài và hai con chim bồ câu hoặc hình ảnh ngạ quỷ. Đó là dấu hiệu của
2/những việc bất thiện ông đã làm.
Nghe kinh tụng đã xua đuổi
được tư tưởng bất thiện và kết quả là hình ảnh ma quái lẫn muông thú biến mất. Tâm
trở nên an tịnh nhờ nghe kinh kệ và thọ Ngũ Giới nên hình ảnh 3/ chư Thiên xuất
hiện. Cho đến phút cuối, trạng thái tâm trong sạch này mạnh hơn hết. Tâm này
còn mạnh hơn cả tâm khi thấy song thân. Hình ảnh cha mẹ đã biến mất để cuối
cùng con đường lên thiên giới hiển lộ cho người hấp hối thư thái ra đi.
-oOo-
Kết luận câu chuyện này là
giây phút cuối trong đời sẽ có ảnh hưởng mạnh đưa chúng ta về cảnh giới cao hơn
hay thấp hơn. Vì thế, bổn phận của thân nhân người đang hấp hối là hãy nhắc nhở
cho người đó những việc thiện đã làm trong đời và tụng kinh niệm Phật luôn luôn.
Chúng ta không nên làm tâm thức người đó mê mờ qua sự khóc than hay khiến họ lo
nghĩ đến chuyện thế tục.
Tôi cũng hiểu thêm rằng cho
dù mộ đạo hay làm việc thiện đến đâu chăng nữa, chúng ta không thể đạt được
giải thoát hoặc lên cõi Niết bàn. Mọi hành vi thiện chỉ có thể giúp chúng ta
tái sinh lên cõi an vui như cõi trời hoặc Phạm Thiên chẳng hạn.
Chỉ khi hành thiền Tuệ Quán
(Vipassana-bhavana) chúng ta mới thoát khỏi được 10 kiết sử (dasa samyojana) và
đạt được 4 quả Thánh đưa đến Giải Thoát. 4 quả Thánh đó là Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất
Lai và A-la-hán.
3 kiết sử đầu tiên: thân
kiến (sakkaya-ditthi), hoài nghi (vicikiccha), và giới cấm thủ (silabbata-paramasa)
chỉ vượt qua được khi đạt quả Nhập Lưu. Ai đã đạt được quả vị này sẽ không tái
sinh vào 4 khổ cảnh: Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh, và A-tu-la.
Không những thế, các Ngài
không tái sinh quá 7 lần. Khi lâm chung, các Ngài chỉ thấy hình ảnh cõi người
hay cõi trời mà thôi.
Ai hành thiền tiến xa hơn
nữa sẽ đạt được quả vị Nhất Lai khi kiết sử thứ 4 là dục ái (kamaraga) và thứ 5
là sân hận (patigha) đã bị suy yếu. Các Ngài chỉ còn tái sinh thêm một lần mà
thôi. Hình ảnh hiện ra khi hấp hối cũng là hình ảnh cõi người hay cõi trời.
Người nào hành thiền và
diệt được hoàn toàn kiết sử thứ 4 và thứ 5, nghĩa là dục ái (kamaraga) và sân
hận (patigha), sẽ không tái sinh lại cõi người nữa. Các Ngài sẽ tái sinh vào
thiên giới gọi là Tịnh Cư Thiên, và sẽ nhập Niết bàn sau đó. Những vị này chỉ
nhận được hình ảnh chư Thiên khi hấp hối.
Khi hành thiền nếu tiến
được xa hơn, chúng ta có thể đạt được quả A-la-hán khi loại trừ 5 kiết sử còn
lại: sắc ái (rupa-raga), vô sắc ái (arupa-raga), mạn (mana), trạo cử (uddhacca),
và vô minh (avijja). Các Ngài đã đạt được quả vị cuối cùng, và khi lìa cõi đời
sẽ không thấy hình ảnh gì cả.
Niết bàn là đích cuối cùng
do Đức Phật tìm thấy qua thiền Tuệ Quán. Các đệ tử của Ngài đi trên con đường
do Ngài chỉ dạy, và phải nhờ thiền Tuệ Quán mới đạt đến Niết bàn. Những hình
ảnh hiện ra chỉ là những ánh đèn khi mờ khi tỏ tạm soi kiếp sống con người. Mục
tiêu cuối cùng, ngọn đèn sáng thật sự ở cõi Niết bàn, chỉ đạt được qua thiền
Tuệ Quán mà thôi.
________________________________
[1] Lời người dịch: Nguyên bản «Five Visions of a Dying Man», tác giả
Hòa ThượngRastrapal, thuộc loạt sách Lá Bồ đề, số 150 (Bodhi Leaves No. 150) do
Hội Ấn tống Kinh sách Phật giáo (Buddhist Publication Society) tại Tích Lan
xuất bản, năm 2000.
[2] Lời người dịch: Chiều thứ 4 thuộc về thời
gian, 3 chiều kia là chiều ngang, chiều dọc và chiều sâu. Thế giới chúng ta
đang sống có 3 chiều. Theo giả thuyết, nếu được sống trong không gian 4 chiều, chúng
ta có khả năng đi ngược về quá khứ hay tiến thẳng đến tương lai rất dễ dàng.
[3] Lời
người dịch: Tỳ kheo Tịnh Đức có bình luận thêm rằng nếu người hấp hối thấy máu,
đâm chém hoặc hình ảnh nào có sắc thái giận dữ thì sẽ tái sinh trong cõi
A-tu-la. Có 2 loại A-tu-la (Asuras): A-tu-la Thiên và A-tu-la thọ khổ.
Comments
Post a Comment